-87-
570. Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng(1).
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,
575.Hàn huyên(2) chưa kịp giãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang(3) một lão một trai,
580. Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh(4),
Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai(5).
Đồ tế nhuyễn(6), của riêng tây,
Sạch sành sanh vét(7) cho đầy túi tham.
585.Điều đâu bay buộc ai làm ?
1-Tả cái vẻ mặt buồn của Kiều. 2-Xem số 4 trang 76. 3-Gìa là gông. Giang là gông vào cổ. 4-Kinh
thi có câu “thương nhặng chi thanh”nghĩa
là tiếng con nhặng xanh. Ý nói đồ tiểu nhân bặng nhặng.5-Câu này theo bản cũ
cho chữ gối mai. Gối mai do chữ “mai trẩm”
cũng như “mai trướng” nói sự vui vẻ
đoàn tụ trong nhà. Có bản viết “toang
hoang khung cửi, tan tành gối mai” hay là “rụng rời khung dệt, tan tành gối mai.” Lại có bản viết “rụng rời bọc liễu, tan tành cỗi mai.”6-Tế
nhuyễn là đồ đạc như quần áo, chăn gối.7-Có bản viết là “sạch sành sanh nhặt cho.”8-Dập là đồ để bắt cá. Giật giàm là kéo
cái bẩy. Ý là tự dưng mắc tai vạ. Có bản viết “vì ai giá họa vu oan rõ ràng” nhưng không họp vần.
-88-
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất(1) là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt(2) ngẩn ngơ,
590. Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy(3) suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn(4).
Giường cao(5) rút ngược dây oan,
Dẫu là đá(6) cũng nát gan, lọ người.
595.Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa(7).
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
*
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
600.Trong khi ngộ biến(8) tòng quyền biết sao
Duyên hội ngộ, đức cù lao(9),
Bên tình bên hiếu(10), bên nào nặng hơn?
1-Xưng xuất là tiêu xưng.2-Hoảng hốt là
rối rít không biết làm sao.3-Có bản viết “hạ
từ van vái suốt ngày.”4-Tiếng kêu vang lân tuất(thương xót) thì rầm rĩ lên
mà tay tồi tàn thì cứ đánh đập dữ dội. 5-là tấm gỗ bắc ngang trên nóc nhà. 6-Có
bản viết “dẫu người đá”7-Có bản viết “oan này chỉ có.”8-Bản kinh chữa lại là “xử biến” cùng nghĩa. 9-Hội ngộ là trai
gái gặp nhau. Cù lao do Khinh thi có câu “ai
ai phụ mẫu sinh ngã cù lao”nghĩa là thương xót thay công cha mẹ sinh ra ta
khó nhọc. Ý nói một bên đối với Kim Trọng và một bên cha mẹ.Có bản viết là “Chữ tình chữ hiếu.”
-89-
Để lời thệ hải minh sơn(1),
Làm con trước phải đền ơn sinh thành(2).
605.Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng(3) hiếu trọng tình thâm,
610.Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu(4) trong đôi ba ngày.
615.Thương lòng(5) con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ(6)!
Đau lòng(7) tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên !
Hạt mưa(8) sá nghĩ phận hèn,
620.Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân(9).
1-Tình sử có câu “hải thệ sơn minh”nghĩa là chỉ bể mà thề, chỉ núi mà nguyện. Dù bể
cạn núi mòn lời thề không đổi. 2-Kinh dịch có câu “Thiên sinh chi, địa thành chi”nghĩa là trời sinh ra có hình, đất
làm ra thành hình. Ta coi công đức cha mẹ như trời đất cho nên gọi là “sinh thành.”3-Có bản viết là “thấy lời.”4-Qui liệu là thu xếp. 5-Bàn
kinh viết là “thương nàng”hình như
lời tác giả nói. Ở đây để “thương lòng”
thành ra Kiều tự nghĩ cái cảnh mình lúc đó có lẽ họp ý với tác giả hơn. 6-Có
bản viết là “gặp cơn đổi gió thay mây bất
kỳ” hay “gặp cơn dạ bốc tai bay bất
kỳ.”7-Bản kinh viết “đau bề”
không bằng chữ “đau lòng”vì 2 tiếng “lòng” đi sóng với nhau thì hơi văn mới
mạnh. 8-hạt mưa là thân phận đàn bà. 9-Thơ Mạnh Giao đời Đường có câu “dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân
huy”nghĩa là muốn đem tấc lòng cỏ đền bồi khi sang ba tháng xuân. Có khí tố
mùa xuân mới có cỏ. Cũng như có cha mẹ mới có con.
-90-
Sự lòng ngỏ với băng nhân(1),
Tin sương(2) đồn đại xa gần xôn xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
625.
Hỏi tên rằng: Mã Giám
sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên(3) trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sao tớ lao xao
630.Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng(4),
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm(5) tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa(6) mấy hàng !
635.Ngại ngùng dìn gió(7) e sương,
Ngừng(8) hoa bóng thẹn, trông gương mặt
dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai(9).
Đắn đo cân sắc cân tài,
640.Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
1-Băng nhân là người làm mối.2-Bỡi chữ “sương tin.”Trời có sương thì có tin báo
trước cũng như chim nhạn ở bên Bắc bay lại thì ai ai cũng biết sắp có sương mù.
Ý nói tin đồn khắp cả mọi nơi. 3-Qúa niên là đứng tuổi, không trẻ không già.
4-Sỗ sàng là trơ tráo không khiêm tốn. 5-Bản kinh viết “nỗi mình đang tức nỗi nhà.”6-Bản kinh viết “châu sa mấy hàng.”Các bản cũ viết là “lệ hoa.”Vả lại “ Thềm hoa”
đi với “lệ hoa”nghe hay hơn.7-Dín là
tiếng cổ có nghĩa là “e lệ.”Có bản
viết “dạn gió e sương.”Chữ “dạn”không phải nghĩa. 8-Nhiều bản viết “ ngừng hoa”nghĩa là nhìn ngắm. Có bản mới viết là “xem hoa”hay “nhìn hoa.”9-Bỡi câu “dung đạm
như cúc, cách sấu như mai.”nghĩa là vẻ thanh như hoa cúc, dáng gầy như cành
mai. Dáng của mỹ nhân khi buồn khi thẹn.
-91-
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường(1)?
645.Mối rằng: đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà(2) nhờ lượng người thương dám nài.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá(3) vâng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm giầm(4).
650.Hãy đưa canh thiếp(5) trước cầm làm ghi.
Định ngày nạp thái vu qui,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong !
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
*
655.Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông
những máu sa ruột dàu:
Nuôi con
những ước về sau,
Trao tơ phải
lứa, gieo cầu đáng nơi(6).
1-Sính nghi là lễ cưới, đồ dẫn cưới. Có bản
viết “ Sính nghi vâng dạy bao nhiêu cũng
trình.”2-Có bản viết “ngặt nhà.”3-ngã
giá là mặc cả xong. 4-Tục ngữ có câu “buông
tay giầm, cầm tay chèo”là lái thuyền mà cả được giá mà chèo đi. 5-Canh thiếp là cái thiếp biên niên
canh. Hai bên trai gái đưa cho nhau để so đôi tuổi. 6-Lấy trong Thiên Bảo Dị
Ứng sử: Trương Gia Trinh có 5 đứa con gái muốn gả 1 đứa cho Quách Nguyên Chấn
là người hình dung đẹp. Gia Trinh bèn sai các con gái cầm sợi tơ đứng trong nhà
vòng ra ngoài. Nguyên Chấn đừng ở ngoài rút sợi tơ của ai thì lấy người đó.
Nguyên Chấn rút sợi tở đỏ thì lấy người con gái thứ 3. Tích giao cầu thì lấy
tích trong sách Tam Hợp Bảo Kiếm: Vua Vũ Đế nhà Hán kén phò mã. Công chúa ngồi
trên lầu ném quả cầu xuống. Ai cướp được thì làm phò mã.
-92-
Trời làm chi
cực bấy(1) trời,
660.Này ai vu thác cho người hợp tan !
Búa rìu bao
quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa
trẻ, càng oan khốc già.
Một lần sau
trước cũng là(2),
Thôi thì mặt
khuất chẳng thà lòng đau !
665.Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông
đã(3) gieo đầu tường vôi.
Vội vàng kẻ
giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh(4) hồng nhan,
670.Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh(5),
Lại thua ả Lý(6) bán mình hay sao ?
Cỗi xuân(7) tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675.Lòng tơ(8) dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.
1-Bấy là tiếng cổ có nghĩa là lắm thế,
nhiều thế.2-Ý nói trước sau cũng chết một lần mà thôi. 3-Có bản viết “ông rắp.”4-bản Kinh viết “một chút hồng nhan.”Có bản viết “một tấm hồng nhan.”5-Lấy tích Hán thư.
Cha nàng Đề Oanh phạm tôi cung hình. Nàng dâng thư lên vua Văn Đế xin chuộc tội
cho cha, Vua cảm lòng hiếu đó nên tha tội cho cha nàng. 6-Lấy tích ở Đường Tùng
Thư. Nàng Lý Ký nhà nghèo tình nguyện bán mình đem thân vào cúng thần rắn lấy
tiền cứu cha mẹ. Về sau nàng giết được thần rắn lấy được vua Việt Vương. 7-Theo
sách Trang Tử cây xuân là thứ cây sống lâu. Cứ 8.000 năm là một mùa Xuân, 8,000
năm là một mùa Thu. Lấy chữ “xuân”mà
nói là cha bỡi ai cũng muốn cha sống lâu. Có bản viết “xuân huyên tuổi hạc càng cao” Cứ như ý câu dưới thì để “cỗi xuân”phải nghĩa hơn. Có bản viết “chồi xuân.”8-Có bản viết “lượng trên dù chẳng.”Đây theo bản cũ để
“lòng tơ” Ý nói cha cứ vướng víu
không cho bán mình thì mọi việc hư hỏng cả.
-93-
Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây(1).
Phận sao(2) đành vậy cũng vầy,
680.Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh(3).
Cũng đừng tính quẩn lo quanh(4),
Tan nhà là một thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
685.Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao ?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690.Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì(5) !
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm(6) đã đặt, tụng kỳ cũng xong.
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ(7) giục giã đã mong trở về.
695. Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ(8), tóc se mái sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
1-Ý nói con bán mình phải đi xa còn cha
ở nhà trông nom mẹ và em.2-Có nhiều bản
viết “phận đành.”3-nghĩa là cũng ví
như lúc còn thơ ấu nuôi không được. 4-Có bản viết là “toan quanh.”5-Tiền Thần Luận có câu “thủ rung hữu tiền, khả biến cải hắc bạch điên đảo thị phi”nghĩa là nghĩa
2 câu đó. 6-Lễ tâm nghĩa như ta nói “có
chút long thành,”7-Tinh kỳ là giờ dẫn hôn. Do câu “hôn giả kiến tinh nhi hành”là đám cưới trông thấy sao mới đi. Nghĩa
là cưới về đêm. 8-Có bản viết “áo dầm
giọt tủi”
-94-
Công trình kể biết mấy mươi.
700. Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu(1) non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705. Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì(2) thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa(3) đền nghì trúc mai(4).
Nợ tình chưa trả cho ai,
710.
Khối tình mang xuống
tuyền đài(5) chưa tan.
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn(6),
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn(7) thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân(8),
1-Trời Liêu là nói đất Liêu Dương. 2-Có
bản viết là “thôi thế là thôi.”3-Chuyện
luân hồi nói nợ ai kiếp này không trả được thì kiếp sau thành thân trâu, ngựa ở
nhà người đó để trả. 4-Trúc mai nói tình nghĩa giao kết như cây trúc cây mai
vẫn làm bạn với nhau. 5-Tình sử có tích
người con gái phái lòng người lái buôn, Người lái buôn đi xa không về. Cô ta ốm
tương tư mà chết. Hỏa tán cái gì cũng cháy duy có 1 cục ở trong bụng không
cháy, đập không vỡ. Khi người lái buôn trở về khóc. Nước mắt nhỏ vào thì nó tan
ra thành máu. Tuyền đài là âm phủ cũng như nói “dạ đài”hay “hoàng tuyền.”6-bàn
hoàn là lưu luyến không nỡ dứt. 7-Có bản viết là “giọt tràn thấm khăn.”8-Giấc
xuân do chữ “xuân miên.”nghĩa
là giấc ngủ yêm ái. Ông Vũ Trinh là quan Tham Tri bộ Hình đời trước đọc đến chỗ
này nói Thúy Vân xuất hiện 3 lần mà lần nào cũng trơ như hòn đá. Trong hội Đoạn
trường sao có của ngu xuẩn như vậy. Cô Đạm Tiên còn làm gì được nàng nữa. Nàng
chỉ đáng cho theo thói giàu sang làm bà quan là phải.
-95-
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715. Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình,
Cớ gì ngồi nhẫn tàn canh ?
Nỗi riêng còn mắc với tình chi đây?
Rằng: Lòng rộn rã thức đầy(1),
720. Tơ duyên(2) còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng(3),
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Cậy em,
em có chịu lời,
Ngồi
lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725. Giữa đường đứt
gánh tương tư,
Loan
giao(4) chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ
khi gặp chàng Kim,
Khi
ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu
sóng gió bất kỳ,
730. Hiếu tình có lẽ(5)
hai bề vẹn hai !
Ngày
xuân em hãy còn dài,
Xót
tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù
thịt nát xương mòn,
Ngậm
cười chín suối(6) hãy còn thơm lây.
735. Chiếc vành(7) với
bức tờ mây,
Duyên
này thì giữ vật này của chung(8).
1-Có
bản viết “rằng lòng đương thổn thức đày.”2-Bản
Kinh viết “con tơ.”3-bản Kinh viết “sượng sùng.”4-Loan giao là thứ keo gắn
phím đàn. Dùng điển này để nói tình xưa nghĩa cũ gián đoạn đi mà nối lại được.
5-Có bản viết “Hiếu tình khôn lẽ.”6-hàm
tiếu cửu tuyền là có chết xuống dưới chín suối cũng hả lòng. 7-Các bản cũ và
bản kinh đều viết “chiếc vành.”Có bản
viết “chiếc thoa”là lầm vì chiếc vành
là của Kim Trọng tặng Kiều còn chiếc thoa là của Kiều tặng KimTrọng. 8-Bản Kinh
viết là “vật này làm duyên.”chữ “duyên”không đúng vần.
-96-
Dù em
nên vợ nên chồng,
Xót
người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
Mất
người còn chút của tin,
740. Phím đàn với mảnh
hương nguyền ngày xưa.
Mai sao
dầu có bao giờ.
Đốt lò
hương ấy, so tơ phím này.
Trông
ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy
hiu hiu gió thì hay chị về.
745. Hồn còn mang nặng
lời thề,
Nát
thân bồ liễu, đền nghì trúc mai(1);
Dạ đài(2)
cách mặt khuất lời,
Rẩy xin
chén nước(3) cho người thác oan.
Bây giờ
trâm gẫy gương tan,
750. Kể làm sao xiết
muôn vàn ái ân.
Trăm
nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ
duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận
sao phận bạc như vôi,
Đã đành
nước chẩy hoa trôi(4) lỡ làng.
755. Ôi Kim lang! Hỡi
Kim lang!
Thôi
thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời
hồn ngất máu say(5),
Một hơi
lặng ngắt đôi tay lạnh đồng.
1-Do
câu “bồ liễu chi tư vọng thu nhi tiên
điêu, ”Cây bồ cây liễu là thứ cây yếu ớt. Hễ thấy mùa thu tới thì rụng và
héo rồi ví như nười đàn bà yếu ớt.Trúc mai là nghĩa giao kết với nhau. Ý câu
này nói dẫu cái thân hèn yếu này có nát đi nữa cũng mong báo đền cái nghĩa giao
kết với người tri kỷ. 2-xem số 5 trang 94. 3-Có nhiều bản viết “rẩy xin giọt lệ cho người thác oan”
Nhưng “giọt lệ”không đúng ý trong tờ
lưu thư Kiều để lại cho Kim Trọng nói rằng khi đánh đờn và đốt lò hương thấy có
ngọn gió hiu hiu thổi là hồn tôi về thì xin rảy cho chén nước để rõ cái ý 2 bên
đã biết nhau. 4-Do câu “Thủy lưu hoa lạc”
là nói những người bạc mệnh như nước chảy hoa trôi.5-Có bản viết “cạn lời phách lạc hồn bay..”
-97-
Xuân
Huyên chợt tỉnh giất nồng,
760. Một nhà tấp nập,
kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới giầu cơn vựng(1), chưa phai giọt hồng.
Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở mở không ra lời.
765. Nỗi nàng Vân mới rỉ tai,
Chiếc vành này với tờ bồi ở đây.
Này cha làm lỗi duyên mày,
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
Vì ai rụng cải rơi kim(2),
770. Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
Lời con dặn lại một hai,
Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng.
Lạy thôi, nàng lại rén chiềng(3),
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775. Sá chi thân phận tôi đòi,
Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu(4).
V
Xiết bao kể nỗi thảm sầu !
Khắc canh đã giục nam lâu(5) mấy hồi .
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780.Quản huyền(6) đâu đã giục người sinh ly.
1-Giầu là nguôi,bớt. Có bản viết “mới nguôi cơn vựng.”Bản Kinh viết “mới mờ vẻ phấn.”2-Do câu “Hổ phách thập giới, từ thạch dẫn châm.”Nghĩa
là hổ phách bắt rác nhẹ.Ta quen gọi là hạt cải. Đá nam châm hút cái kim. 3-Rén
là thong thả, se sẽ. Chiềng là trình thưa. Có bản viết là “nàng lại thưa trình.” “Trình”thì
không đúng vần và “chiềng” thì ép vần
quá. 4-Do câu “tha hương bạch cốt”nghĩa
là chết ở đất khách quê người.5-có bản viết là “thư lâu.”6-Quản là sáo. Huyền là đàn
-98
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm áo tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm(1),
Dầu dầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương.
785. Rước nàng về đến trú phường(2),
Bốn bề xuân tỏa(3) một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.
Phẩm tiên rơi đến tai hèn,
790.Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai:
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung(4).
Vì ai ngăn đón gió đông,
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi .
795.Trùng phùng dầu họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong.
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao ?
Trên yên sẵn
có con dao,
800.Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
Phòng khi
nước đã đến chân,
Dao này thì
liệu với thân sau này .
Đêm thu một
khắc một chầy(5),
Bâng khuâng
như tỉnh như say một mình.
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một
đứa phong tình đã quen.
1-Dịch câu “hoàng hôn dục vũ hắc như lam.”2-Trú
phường là nhà trọ.3-Xuân tỏa là khóa xuân.Xem số 2 trang 62.4-Tình chung là
tình ái rót riêng vào một người.5-Đường Thi có câu “thu tiêu chỉ vị nhất nhân trường.”nghĩa là đêm buồn chỉ dài cho một
người buồn. Có bản viết là “đêm sầu.”
-99-
Quá chơi lại
gặp hồi đen,
Quen mồi lại
kiếm ăn miền nguyệt hoa .
Lầu xanh có
mụ Tú Bà,
810.Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng
hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp
đắng(1) đôi bên một phường.
Chung lưng mở
một ngôi hàng,
Quanh năm
buôn phấn bán hương đã lề.
815. Dạo tìm khắp chợ thì quê,
Giả danh hầu
hạ dạy nghề ăn chơi .
Rủi may âu
cũng tại trời,
Đoạn trường
lại chọn mặt người vô duyên.
Xót nàng chút
phận thuyền quyên,
820.Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
Mẹo lừa đã
mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ
giá nghênh hôn sẵn ngày .
Mầng thầm: Cờ
đã đến tay(2)!
Càng nhìn vẻ
ngọc càng say khúc vàng(3).
825.Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này
hẳn nghìn vàng chẳng ngoa(4) .
Về đây nước
trước bẻ hoa,
Vương tôn quý
khách ắt là đua nhau .
Hẳn ba trăm
lạng kém đâu,
830.Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,
Miếng ngon kề
dến tận nơi,
Vốn nhà cũng
tiếc của trời cũng tham.
1-Chuyện cổ
tích nói người bán mạt cưa giả làm cám. Người bán mướp đắng giả dưa chuột gặp
nhau bán cho nhau. Bợm gặp bợm.2-Tục ngữ nói cờ ở tay ai nấy phất.3-Vẻ ngọc là
vẻ đẹp của Kiều. Khúc vàng là lòng, bụng.4-Do chữ “nhất tiếu thiên kim”nghĩa là một cười đáng giá ngàn vàng.
-100-
Đào tiên đã
bén tay phàm,
Thì vinh cành
quít cho cam sự đời(1) !
835.Dưới trần mấy mặt làng chơi(2),
Chơi hoa đã
dễ mấy người biết hoa .
Nước vỏ lựu
máu mào gà(3),
Mượn màu
chiêu tập(4) lại là còn nguyên.
Mập mờ đánh
lận con đen(5),
840.Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi
?
Mụ già hoặc
có điều gì,
Liều công mất
một buổi quỳ mà thôi .
Vả đây(6)
đường xá xa xôi,
Mà ta bất
động nữa người sinh nghi .
845.Tiếc thay một đóa trà mi(7),
Con ong đã mở
đường đi lối về.
Một cơn mưa
gió nặng nề,
Thương gì đến
ngọc tiếc gì đến hương(8).
Đêm xuân một
giấc mơ màng,
850.Đuốc hoa(9) để đó, mặc nàng nằm trơ.
1-Tô Thi có
câu “lão du hí như đồng tử, bất chiết mai
chi, chiết quất chi”nghĩa là người già chơi như trẻ con. Không bẻ cành mai
lại bẻ cành quít. Nghĩa là không đứng đắng. Có bản viết “thì vin cành quách cho cam sự đời”2-Bản kinh viết “Trong trần mấy mặt làng soi.”3-Sách Bắc
Lý chí nói con gái thanh lâu tiếp khách xong lấy vỏ thừu lựu nấu lên pha máu
mào gà mà rửa thì còn nguyên. 4-Chiêu tập là nói những cách ngoài để sửa chữa
để người ta mắc lừa. 5-Con đen do chữ “kiềm
lê”là dân đen đầu nghĩa là người ngu dại. 6-Có bản viết “đến
đây.”7-Đường thi có câu “khai đáo trà
mi hoa sự liễu”nở đến hoa trà mi thì sự chơi hoa đã hết rồi. 8-Hai câu này
dịch câu “hốt bị cuồng phong đổ vũ, khởi
tri tích ngọc liên hương.”9-Vợ chồng nhập phòng với nhau thường thắp đèn
hoa.
-101-
Giọt riêng
tầm tã tuôn mưa,
Phần căm nỗi
khách phần dơ nỗi mình:
Tuồng chi là
giống hôi tanh(1),
Thân nghìn
vàng(2) để ô danh má hồng.
855.Thôi còn chi nữa mà mong?
Đời người thôi thế là xong một đời .
Giận duyên tủi phận bời bời,
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh(3).
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860.Một mình thì chớ hai tình thì sao(4)?
Sao dầu sinh sự thế nào,
Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.
Nỗi mình âu cũng giãn dần(5),
Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi .
865.Những là đo đắn ngược xuôi,
Tiếng gà nghe đã gáy sôi(6) mái tường.
Lầu mai vừa rúc còi sương(7),
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi .
Đoạn trường thay lúc phân kỳ(8)!
870.Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh.
1-Tô thi có câu “nhữ phi kỳ nhân thân tinh chiên” nghĩa là ngươi không phải là người
quí vì là thân thể hôi tanh lắm. 2-Do câu “thiên
kim chi thân”là thân đáng ngàn vàng. 3-Quyên sinh là tự vẫn.4-Hai tình là
song thân. Có bản viết là “một tình thì
chớ hai tình thì sao.”5-Bản kinh viết “đánh
liều âu cũng giãn dần.”6-Gáy sôi là gáy rầm lên.7-Lầu mai là lầu tuần canh
buổi sáng. Còi sương là cái còi rúc lúc còn sương. 8-kỳ là đường rẽ. Phân kỳ là
mỗi người đi một ngả. Bản kinh viết “lâm
kỳ”
-102-
Bề ngoài mười dặm trường đình(1),
Vương ông mở tiệc(2) tiễn hành đưa theo .
Ngoài thì chủ khách dập dìu,
Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
875.Nhìn càng lã chã giọt hồng(3),
Rỉ tai nàng mới giãi lòng trước sau:
Hổ sinh ra phận thơ đào,
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng nước đục bụi trong(4),
880.Trăm năm để một tấm lòng từ đây .
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già !
Khi về bỏ vắng trong nhà,
Khi vào đôi đóa(5) khi ra vội vàng.
885.Khi ăn khi nói lỡ làng,
Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.
Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho
kỹ như hình con buôn.
Thôi con còn
nói chi con?
890.Sống nhờ đất khách thác chôn quê người
!
Vương bà nghe
bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã
muốn vạch trời kêu lên.
1-Hán thư
chép nói đường bên Tàu 5 dặm có 1 cái quán gọi là đoản đình, 10 dặm có cái quán
gọi là tràng đình. 2-Có bản viết “vương
ông gánh tiệc.” 3-bản kinh viết “càng
nhìn càng ứa giọt hồng.”Giọt hồng lấy điển nàng Tiết Linh Vân đời nhà Tùy
khi được tuyển vào cung từ biệt cha mẹ khóc đến nỗi nước mắt chảy ra như máu.
4- nước đục bụi trong bỡi câu ở Tình Sử “trọc
thủy thanh trần” nói lên cái nghịch cảnh nước thì trong, bụi thì đục. 5-
Đôi đóa là vờ vĩnh, hững hờ. Có bản viết “khi
vào dùng dắng.”
-103-
Vài tuần chưa
cạn chén khuyên(1).
Mái ngoài
nghỉ đã giục liền ruổi xe(2) .
895.Xót con lòng nặng chề chềì,
Trước yên ông
đã nằn nì thấp cao:
Chút thân yếu
liễu tơ đào,
Dớp nhà đến
nỗi giấn vào(3) tôi ngươi .
Từ đây góc bể
bên trời,
900.Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
Nghìn tầm nhờ
bóng tùng quân(4),
Tuyết sương
che chở cho thân cát đằng(5).
Cạn lời khách
mới thưa rằng:
Buộc chưn
thôi cũng xích thằng nhiệm trao(6) .
905.Mai sau dầu đến thế nào,
Kìa gương
nhật nguyệt nọ dao quỉ thần !
Đùng dùng gió
giục mây vần(7),
Một xe trong
cõi hồng trần(8) như bay .
Trông vời gạt lệ phân tay,
910.Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá(9) đen rầm ngàn mây.
1-Chén khuyên là chén mời. Thơ Vương Duy
đời Đường có câu “khuyến quân cách tận
nhất bôi tửu tây xuất Vương Quan vô cố nhân”nghĩa là khuyên ngươi uống cạn
một chén rượu khi ra khỏi cữa Dương Quan ở phía Tây thì không có ai là người cũ
để mời uống rượu nữa.2-Có bản viết là “mái
ngoài nghỉ đã giục liền ruổi đi.”3-Có bản viết “buộc vào” hay “mắc vào.”4-Tùng
là cây thông. Quân là cây tre to. Ví 2 người quân tử. 5-Dây cát dây đằng là 2
thứ dây leo. Nghĩa bóng là người lẻ mọn. 6-Nhiệm là sẵn.7-Do câu “Vân trì phong trục”là mây ruổi gió chạy.
8-Cõi hồng trần là đám trần ai. 9-bạc phau là trắng xóa. Cầu giá là váng sương
đóng trên mặt cầu;
-104-
Vi lô san sát hơi may(1),
914 Một trời thu để riêng ai một người(2)
.
915.Dặm khuya(3) ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc chen hồng(4),
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn(5).
*
Những là lạ nước lạ non,
920.Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi .
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra .
Thoắt trông nhờn nhợt(6) màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao !
925.Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng
mới bước vào tận nơi .
Bên thì mấy ả
mày ngài,
Bên thì ngồi
bốn năm người làng chơi .
Giữa thì
hương án hẳn hoi,
930.Trên treo một tượng trắng đôi lông mày(7)
.
Lầu xanh quen
lối xưa nay,
Nghề này thì
lấy ông này tiên sư,
Hương hoa hôm
sớm phụng thờ(8).
Cô nào xấu
vía có thưa mối hàng,
1-Xem số 2
trang 69. 2-Xem số 5 trang 98. Có bản viết “riêng
say” hay “riêng ngây một người”3-Dặm
khuya là đi ban đêm. Ngất tạnh là trời cao yên lặng. Mù khơi là 4 bề mênh mông
tịt mù. 4-Có bản viết “má hồng”5-Kinh
Lễ có câu “Thần hôn định tỉnh”là sớm
khuya hỏi thăm cha mẹ. 6-Nhờn nhợt là mất sắc đi, không tươi thắm. 7-Gĩa Hoạch
Biên. Thanh lâu hay thờ bạch My Xích Nhỡn thần.8-Có bản viết “hương hôm hoa sớm.”
-105-
935.Cổi xiêm lột áo chán chường(1),
Trước thần sẽ
nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót
xuống chiếu nằm(2),
Bướm ong bay
lại(3) ầm ầm tứ vi !
Kiều còn ngơ
ngẩn biết gì,
940.Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may,
Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu(4)
.
Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai .
945.Tin nhạn vẩn(5) lá thơ bài,
Đưa người cửa trước rước người cửa sau .
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
*
Lễ xong hương hỏa gia đường,
950.Tú Bà vắt nóc(6) lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh(7).
955.Điều đâu lấy yến làm anh,
Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
Đủ điều nạp thái vu qui(8),
Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
1-Có bản viết “cổi xiêm lột áo sỗ sang.”2-Thay hoa, lấy hoa thải lót xuống chiếu
nằm. 3-Bản kinh viết “bướm đi ong lai.”4-Hàn
thực là tết mồng 3 tháng 3. Nguyên Tiêu là rằm tháng Giêng. Ý nói ngày nào cũng
vui như 2 ngày đó. 5-Có bản viết “tin
nhạn vượt.”6-Có bản viết “Tú bà vắt
véo.”7-Kinh thi có câu “tuệ bỉ tiểu
tinh”nghĩa là có vợ lẻ. 8-Bản kinh viết “đủ điều hành sinh vu qui”
-106-
Giờ ra(1) thay mặt đổi ngôi,
960.Dám xin gửi lại một lời cho minh.
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành(2) mụ lên:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.
965.Bảo rằng đi dạo lấy người,
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
Màu hồ đã mất đi rồi,
970.Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã
bán cho ta,
Nhập gia(3)
phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có
giở bài bây,
Chẳng văng
vào mặt mà mày lại nghe.
975.Cớ sao chịu tốt(4) một bề,
Gái tơ mà đã
ngứa nghề sớm sao?
Phải làm cho
biết phép tao!
Chập bì tiên(5)
rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng:
Trời thẳm đất dày!
980.Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
Thôi thì thôi(6)
có tiếc gì!
Sẵn dao tay
áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát
ngọc liều hoa(7)!
Mụ còn trông
mặt nàng đà quá tay.
1-Bản kinh
viết “dạy điều thay bậc đổi ngôi.”2-Sách
Phật nói trong con người có 3 thần gọi là Bành Kiêu, Bành Cừ, Bành chất hay xui
người ta làm điều ác rồi ngày canh thân lên tâu Ngọc Hoàng. Sách Đạo Giao gọi
là tam thi. 3-Có bản viết “vào nhà.”4-Chịu
tốt là chịu im.5-Bì tiên là roi da. 6-Có bản viết “thôi thôi còn có tiếc gì.”7-Sợ gan cũng như nói: ghê cho cái gan dám liều mình tự tử.
-107-
985.Thương ôi tài sắc bậc này,
Một dao oan
nghiệt dứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở
xa gần,
Trong nhà
người chật một lần như nem.
Nàng thì bằn
bặt giấc tiên,
990.Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào
chốn hiên tây,
Cắt người coi
sóc rước thầy(1) thuốc men.
*
Nào hay chưa
hết trần duyên,
Trong mê
dường đã đứng bên một nàng(2).
995.Rỉ rằng: Nhân quả(3) dở dang,
Đã toan trốn
nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nghiệp
má đào,
Người dù muốn
quyết(4) trời nào đã cho.
Hãy xin hết
kiếp liễu bồ(5),
1000. Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.
*
Thuốc thang
suốt một ngày thâu,
Giấc mê nghe
đã giầu giầu vừa tan.
Tú bà chực
sẵn bên màn,
Lựa lời
khuyên giải(6) mơn man gỡ dần:
1005. Một người dễ có mấy thân!
Hoa xuân
đương nhụy(7), ngày xuân còn dài.
1-Có bản viết
“chạy thầy thuốc men”2-Bản kinh viết
“trong
mê trông thấy Đạm Tiên rõ ràng.”3-Nhân là nhân duyên.Qủa là kết quả.
4-Có bản viết là “muốn lánh.”5-Xem số
1 trang 96. Bản kinh viết “Chịu trời cho
vẹn kiếp tu..”6-Có bản viết “lựa lời
ổn thỏa.”7-Đương nhụy là mới nở. Có bản viết “Hoa xuân đương chiếng.””Chiếng”
là mới mọc mầm ra.
-108-
Cũng là lỡ
một lầm hai,
Đá vàng sao
nỡ ép nài mưa mây(1)!
Lỡ chưn trót
đã vào đây,
1010. Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non(2).
Người còn thì
của hãy còn,
Tìm nơi xứng
đáng là con cái nhà(3).
Làm chi tội
báo oán gia,
Thiệt mình mà
hại đến ta hay gì?
1015. Kề tai mấy mỗi nằn nì,
Nàng nghe
dường cũng thị phi rạch ròi.
Vả trong(4)
thần mộng mấy lời,
Túc nhân(5)
âu cũng có trời ở trong.
Kiếp này nợ
trả chưa xong,
1020. Làm chi thêm một nợ chồng(6) kiếp
sau!
Lặng nghe,
thấm thía gót đầu(7),
Thưa rằng: Ai
có muốn đâu thế này?
được như lời,
thế là may,
Hẳn rằng mai
có như rày cho chăng!
1-Đá vàng là
quyết giữ lòng trinh tiết. Mây mưa là sự nguyệt hoa. 2-Để đợi ngày lấy
chồng.Xem số 2 trang 83.3-Theo bản cũ để “là con
cái nhà”nghĩa là tìm con cái nhà xứng đáng mà lấy. Có bản viết “làm con cái nhà” thì sai mất nghĩa. 4-Có
bản viết “vả suy”5-Túc nhân, số tiền
định. Là nợ nần kiếp trước.6-Chồng là chồng chất lên . Có bản viết “làm chi thì cũng một chồng kiếp sau” thì
e không đúng nghĩa. Nguyên nghĩa trong chính bản là: kiều tưởng đạo tiền sinh
nghiệp trái, kim nhật vị hoàn, hựu tăng lai sinh nhất trùng oan trái, hà thời
hoàn đắc càn tĩnh: nghĩa là Kiều nghĩ thầm rằng nợ kiếp trước mà kiếp này không
trả, lại để kiếp sau nợ chồng lên một lần nữa thì bao giờ gỡ ra cho xong7-bản
kinh viết “nặng mằm ngẫm nghĩ gót đầu”Có
bản viết “lặng nghe ngẫm nghĩ gót đầu.”
-109-
1025. Sợ khi ong bướm đãi đằng(1),
Đến điều sống
đục, sao bằng thác trong!
Mụ rằng: Con hãy thong dong,
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
Mai sau ở chẳng như lời,
1030. Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
*
Trước lầu Ngưng bích(2) khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
1035. Bốn bề bát ngát xa trông(3),
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng(4),
1040. Tin sương luống hãy rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ(5),
Tấm son gột rửa(6) bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa(7) hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh(8), những ai đó giờ?
1-Đãi đằng là lôi thôi. 2-Tên lầu có bản
viết “Trước sau Ngưng bích.”3-Có bản
viết “vời trông.”4-Đồng là lời đồng
tâm, là lời nguyền ước. 5-bỡi chữ “hải chi giốc, thiên chi nhai”6-Có bản
viết “tấm thân gột đến”7-“Người tựa cữa” là mẹ chờ con. Lấy tích Vương Tôn Giả đời chiến quốc bảo con
rằng “mày đi buổi sớm tao tựa cữa đứng
mong. Mày đi buổi chiều tao tựa cữa đứng ngóng.”8-Kinh lễ: thờ cha mẹ quạt
khi nồng, ấp khi lạnh.
-110-
1045. Sân Lai(1) cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm(2)?
Buồn trông cửa bể gần hôm(3),
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
1050. Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chưn mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh(4)
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị
*
1055. Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu
lạc, nên vài bốn câu .
Ngậm ngùi rủ
bước rèm châu(6),
Cách tường,
nghe có tiếng đâu họa vần(7).
Một chàng vừa
trạc thanh xuân,
1060. Hình dong chải chuốt,
áo khăn dịu dàng.
Nghĩ rằng
cũng mạch(8) thư hương,
Hỏi ra mới
biết rằng chàng Sở Khanh.
Bóng Nga thấp
thoáng dưới mành,
Trông nàng,
chàng cũng ra tình đeo đai(9).
1-Chuyện Cao
sĩ: đời nhà Đường có ông Lão Lai đã 70 tuổi, cha mẹ hãy còn. Một hôm ông mặc áo
ngũ sắc ra sân múa, rồi giả cách ngã, khóc như trẻ con, để làm vui cha mẹ. 2-Tử
là cây tử. Tử phần là chỗ quê hương, nhà cữa mình ở cũ. Có khi cây tử ví là
cha. 3-Có bản viết “Buồn trông cữa bể
chiều hôm.”4-Duềnh là vựng bể, vực sâu. 6-Có bản viết “Tần ngần đứng rủ rèm châu.”7-Tây sương có câu “cách tường nhi thù họa đáo thiên minh”nghĩa là 2 bênh ngồi cách
tường mà xướng họa với nhau từ tối đến sáng. 8-Mạch là dòng dõi. 9-Đeo đai là
quyến luyến. Có bản viết là “trông chàng
nàng cũng”thì e là lầm vì không ăn nghĩa với câu trên.
-111-
1065. Than ôi ! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu
bỗng lạc loài đến đây ?
Giá đành
trong nguyệt trên mây,
Hoa sao, hoa
khéo đọa đày bấy hoa ?
Nổi gan(1)
riêng giận trời già,
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên
ví biết anh hùng,
Ra tay tháo
cũi, sổ lồng như chơi !
Song thu đã
khép cánh ngoài(2),
Tai còn đồng
vọng(3) mấy lời sắt đanh.
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
Cám lòng chua
xót, nhạt tình chơ vơ(4) .
Những là lần
lữa nắng mưa,
Kiếp phong
trần biết bao giờ là thôi ?
Đánh liều
nhắn một hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ(5) vớt người trầm luân.
Mảnh tiên(6)
kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo
đáp, nỗi thân lạc loài .
Tan sương vừa
rạng ngày mai,
Tiện hồng(7)
nàng mới nhắn lời gởi sang.
1085. Trời tây lãng đãng(8) bóng vàng,
Phúc thư đã
thấy tin chàng đến nơi.
1-Nổi gan là
nổi giận lên. Có bản viết là “tức gan.”2-Bản
kinh chữa câu này và câu sau là “Nàng về
sớm tựa lầu mai/Nghe lời dường cũng ra người sắc đanh.”3-Đồng vọng là nghe
văng vẳng. 4-“Cảm lòng chua xót”đối
với hai chữ “nghĩ người” và “nhạt tình chơ vơ”đối với hai chữ “nghĩ mình”ở câu trên. Nghĩa là: cảm cái
lòng người ta thương mình, mà đỡ cái khổ lưu lạc của mình. 5-Tế độ là cứu vớt.
Trầm luân là chìm đắm. 6-Mảnh tiên là tờ giấy viết thư. 7-Tiện hồng là gởi thư.
Tích Hán Vũ Đế bắt được thư buộc ở chưn con nhạn (là loại chim hồng như loài vịt
trời) của Tô Vũ bên Hung Nô gởi về. 8-xem số 8 trang 64.
-112-
Mở xem một
bức tiên mai(1),
Rành rành
tích việt(2) có hai chữ đề .
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì(3) phải
chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành(4),
Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào .
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn(5) mang lấy nợ nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh(6),
1100. Còn nhiều kết cỏ(7) ngậm vành(8) về sau
1-Tiên mai là mai tiên nghĩa là tờ giấy
hoa tiên. 2-Xem trong truyện tiểu thuyết thì chữ “tích việt”cắt nghĩa câu chữ Hán có nghĩa là “ngày 21, giờ tuất, trèo qua tường sang với nhau”chứ không phải câu
chữ Hán có nghĩa là “ngày 21 giờ tuất thì
trốn.”Vì lúc bấy giờ Kiều mới gặp mặt Sở Khanh. Hai bên lời qua tiếng lại
cách nhau một bức tường. Cách 2 ngày nữa Sở Khanh mới rẽ song lẻn vào rủ
Kiều trốn đi: Kiều viết
thư cầu cứu vào sáng sớm ngày mai “Tan
sương vừa rạng ngày mai.”Chiều tới thì có thư trả lời “Trời tây lãng đãng bóng vàng/Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi.”Sau
đó mới mô tả Sở Khanh lẻn vào, tức là ngày mốt, cảnh cũng vào chiều tối: “1091. Chim hôm thoi thóp về rừng Đóa trà mi
đã ngậm trăng nửa vành/Tường đông lay động bóng cành/Rẽ song đã thấy Sở Khanh
lẻn vào.” 3-Tuất thì là giờ tuất. 4-Tây sương có câu “Cách tường hoa ảnh động”nghĩa là cách tường bên kia có bóng hoa
lung lay. 5-Chim lạc đàn. 6-Do câu “Cốt
nhi nhục, tử nhi sinh”nghĩa là xương mà mọc thịt, chết mà sống lại. Tức là
dám nhờ cứu vớt. 7-Lấy tích Ngụy Thù nước Tấn có người vợ lẻ trẻ đẹp. Ngụy Thù
bảo người con Ngụy Khỏa phải đem người vợ lẻ ấy vào áo quan chôn chung với cha.
Ngụy Thù chết. Ngụy Khỏa không nghe lời cha, cho người vợ lẻ về nhà. Về sau Ngụy
Khỏa đánh tướng nhà Tần tên là Đỗ Hồi trên bãi cỏ. Đỗ Hồi vướn chưn vào cỏ ngã
bị Ngụy Khỏa đâm chết. Ngụy Khỏa chiêm bao thấy cha người vợ lẻ hiện lên tạ ơn
rằng: “cảm ơn ông không chôn sống con tôi
nên kết cỏ cho Đỗ Hồi té ngã.”8-lấy tích Dương Bảo đời Đông Hán đi chơi
thấy một con chim sẻ vàng bị chim cắt đánh rớt xuống đất. Dương Bảo bắt đem về
nuôi khỏe mạnh thì thả ra. Về sau có đứa trẻ mặc áo vàng, cầm 4 cái vành ngọc
đến tạ ơn nói “Cảm ơn ông có bụng cứu
tôi, cho nên đem ngọc đến tạ. Được ngọc này thì con cháu đời đời làm quan vinh
hiển.”
-113-
Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng !
Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi !
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong(1),
Có tên dưới trướng(2), vốn dòng kiện nhi(3)
.
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn(4).
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng can cớ gì !
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đỗi, quản gì được thân.
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chưn,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu !
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu(5),
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
Đêm thu khắc lậu canh tàn(6),
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ nhợt mùi sương(7),
Lòng quê(8) đi một bước đường, một đau.
1-Ngựa truy phong là ngựa chạy theo được
gió. 2-Tức là thủ hạ. 3-Kiện nhi là người sức vóc khỏe mạnh. 4-Lấy tích đời
NamBắc triều, Đàn Công bảo Vương Kinh Tắc “tam
thập lục kế, tẩu vi thượng sách”36 kế, chạy là hơn cả. 5-Bản kinh viết “Dắt tay lẻn bước xuống lầu/Song song đôi
ngựa trước sau một đoàn.”6-Khắc lậu là cái khắc ở trong đồng hồ theo mặt
nước chảy đi từng giọt mà sụt xuống. Canh tàn là gần sáng. 7-Tả cảnh đêm mùa
Thu. Nhợt là cỏ có sương bám vào mùi nhờn nhợt. Có bản viết “lối mòn lướt mướt hơi sương.”8-Lòng quê
là lòng riêng, nghĩ riêng trong bụng.
-114-
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng(1).
Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào !
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.
*
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130. Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau !
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời .
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà .
1135. Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời .
Thịt da
ai cũng là người,
Lòng
nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau .
Hết lời
thú phục, khẩn cầu,
1140. Uốn lưng thịt đổ,
giập đầu máu sa .
Rằng:
Tôi chút phận đàn bà,
Nước
non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ
sống thác ở tay,
Thân
này đã đến thế này thì thôi !
1145. Nhưng tôi có sá
chi tôi,
Phận
tôi đành vậy, vốn người để đâu ?
Thân
lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng
trinh bạch từ sau cũng chừa(2)!
Được
lời mụ mới tùy cơ,
1150. Bắt người bảo
lĩnh làm tờ cung chiêu.
1-Dậy
dàng là ồn ào, nổi lên.2-Câu này có ý
nghĩa mỉa mai, xót xa lắm. Ông Nguyễn Lạng đời trước đọc đến câu này có phê
rằng “đến sự trinh bạch mà cũng có khi
phải xin hối, xin chừa, thì trò đời nghĩ cũng đáng bật cười thật.”Có bản
viết “Xót lòng trinh bạch từ lâu đến giờ,”
-115-
Bày vai
có ả Mã Kiều,
Xót
nàng, ra mới đánh liều chịu đoan .
Mụ càng
kể nhặt, kể khoan,
Gạn
gùng(1) đến mực, nồng nàn mới tha .
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi !
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung(2)
Đà đào(3) lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng(4) xưa nay !
Có ba mươi lạng trao tay,
Không dưng chi có chuyện này, trò kia(5)!
1165. Rồi ra trở mặt tức thì,
Bớt lời, liệu chớ trây chi, mà đời(6)!
Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu !
Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào .
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Nọ nghe rằng có con nào ở đây(7) .
Phao cho quyến gió rủ mây,
Hãy xem có biết mặt này là aỉ.
1-Có bản viết là “ Đón rào đến mực.”2-Phù
dung là hoa sen nở. Ví người đàn bà đẹp. 3-Đà đao là miếng võ đánh hiểm, chạy
đi để người ta đuổi rồi quay lại chém.. Chước lừa dối. 4-Một cốt, một đồng là
Sở Khanh và Tú bà thông mưu nhau đánh lừa Kiều, 5-Có bản viết “Không dưng chi có người này nọ kia,”6-Bớt
lời là giữ mồm giữ miệng. Trây là trêu ghẹo. Mà đời là mà đi đời. Có bản viết :
“Bớt lời liệu chớ sân si mà đời.”Sân
si là tức giận. 7-Có bản viết “nghe rằng
mới có.”
-116-
1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi !
Rằng không, thì cũng vâng lời rằng không !
Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
Bước vào, vừa rắp thị hùng ra tay,
Nàng rằng: Trời nhé(1) có hay !
1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai ?
Đem người giẩy xuống giếng thơi(2),
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay !
Còn tiên tích việt ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai ?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương(3)!
Phụ tình án đã rõ ràng,
Nhơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui(4).
Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190. Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng ngần(5),
Đến phong trần, cũng phong trần như ai !
Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru !
1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi !
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
1-Nhé là tiếng đệm sau câu tỏ ý kêu gọi.
2-Mạnh Tử có câu “Thôi nhân nhập tĩnh nhi
hạ chi thạch”nghĩa là đẩy người xuống giếng rồi lấy đá ném theo. Ý là rủ người
ta đi rồi làm hại, Có bản viết “phỉnh
người giấy xuống giếng thơi.”Thơi là sâu thẳm, 3-Bản kinh viết “Ai ai cũng gớm mặt người vô lương.”4-Có
bản viết “Chờ xong nghỉ mới.”5-Phương
ngôn nói “trong như giá, trắng như ngần.”Ngần
là con cá con trắng như bột.
*
-117-
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200. Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều .
Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
1205. Mụ rằng: Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây ?
Ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm lòng,
1210. Vành ngoài bảy chữ(1), vành trong tám
nghề(2) .
Chơi
cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn
lóc đá, cho mê mẩn đời(3) .
Khi
khóe hạnh, khi nét ngài(4),
Khi
ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa .
1215. Điều là nghề
nghiệp trong nhà,
Đủ ngần
ấy nết, mới là người soi(5).
1-7 chữ
là : 1-Khấp là khóc giả thương yêu khách. 2-Tiễn là cắt tóc đưa cho khách làm
tin. 3-Thích là thích tên khách cào cánh tay. 4-Thiêu là đốt hương để nguyền. 5-Gía
là hẹn hò lấy nhau. 6-Tẩu là rủ đi trốn. 7-Gỉa chết làm cho khách quyến luyến,
2-Tám nghề là 8 cách chơi. Trong bản Kiều chữ có dẫn rõ ràng nhưng tục lắm nên
không thích vào đây. 3-Bản kinh viết “Đủ
điều lịch sự mới mê được người.”4-Khóe hạnh chính nghĩa là 2 bên mép. Tức
là liếc mắt vì có chữ “my mục tống tình”nghĩa
là mắt liếc mày đưa. 5-Có bản viết “làng
soi.”Soi là sành sỏi.
-118-
Gót đầu
vâng dạy mấy lời,
Dường
chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.
Những
nghe nói, đã thẹn thùng,
1220. Nước đời lắm nỗi
lạ lùng, khắt khe!
Xót
mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ
lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là
mặt dạn, mày dày,
Kiếp
người đã đến thế này thì thôi!
1225. Thương thay thân
phận lạc loài,
Dẫu sao
cũng ở tay người biết sao ?
Lầu
xanh, mới rủ trướng đào,
Càng
treo giá ngọc, càng cao phẩm người .
Biết
bao bướm lả, ong lơi,
1230. Cuộc
say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu
lá gió, cành chim(1),
Sớm đưa
Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh(2).
Khi
tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật
mình, mình lại thương mình xót xa .
1235. Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặt người mưa Sở, mây Tần,
1240. Những mình nào biết có xuân là gì!
Đòi phen gió tựa, hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề(3) trăng thâu.
1-Nàng Tiết Đào đời Đường lúc bé làm thơ
có câu “chi nghinh nam bắc điểu, diệp
tống vãng lai phong”nghĩa là cành đón chim nam bắc, lá đưa gió đi lại.
Người cha xem thơ biết con về sau chẳng ra gì. 4-Tống Ngọc là người nước Sở.
Tràng Khanh là Tư mã Tương Như đời nhà Hán. Hai người đẹp trai và hay có tính
trăng hoa. 3-có bản viết “Bốn mùa”nhưng
không đúng vần. Bản kinh viết “bốn hè”là
4 phía.
-119-
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245. Đòi phen nét vẽ, câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,
Vui là vui gượng kẻo là(1),
Ai tri âm đó,
mặn mà với ai ?
Thờ ơ gió
trúc, mưa mai(2),
1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân.
Nỗi lòng đòi đoạn xa gần(3),
Chẳng vò mà
rối, chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín
chữ cao sâu(4),
Một ngày một
ngả bóng dâu tà tà(5) .
1255. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân
phận con ra thế này!
Sân hòe(6)
đôi chút thơ ngây(7)
Trân cam, ai
kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện
ước ba sinh,
1260. Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
1-Có người
đọc “kẻo mà.”Các bản nôm đều viết “kẻo là.”2-Do câu “trúc phong mai vũ.”là trúc gặp gió, hoa mai được mưa. Ý nói cảnh
đẹp mà mình thờ ơ không thiết đến. 3-Có bản viết “ôm lòng đòi đoạn.”4-Kinh thi có câu “cửu tự cù lao”là Sinh:
đẻ, Cúc: nâng đỡ, Phủ: vuốt ve, Súc: nuôi cho bú nớm, Trưởng:
nuôi cho lớn, Dục: nuôi dạy, Cố: trông nom, Phục: xem tính mà dạy bảo, Phúc:
gìn giữ. 5-Do câu “nhật lạc tang du”là
mặt trời lặn về phương Tây. “tang du”là
phương Tây. Ý nói cảnh người già. 6-Do tích sân nhà ông Vương Hựu có 3 cây hòe
cho nên con ông ấy được vinh hiển. Sân hòe ở đây có nghĩa là anh em. Bản kinh
viết “long đong nhà bạc em ngây.”
-120-
Khi về hỏi
liễu Chương đài(1),
Cành xuân đã
bẻ cho người chuyên tai.
Tình sâu mong
trả nghĩa dày,
Hoa kia đã
chắp cành này cho chưa ?
1265. Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương
quan(2) luống lần mơ canh dài .
Song sa vò võ
phương trời,
Nay hoàng
hôn, đã lại mai hôn hoàng(3).
Lần lần thỏ
bạc ác vàng,
1270. Xót người trong hội
đoạn trường đòi cơn !
Đã cho lấy
chữ hồng nhan,
Làm
cho, cho hại, cho tàn, cho cân !
Đã đày
vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ
nhục một lần mới thôi !
VI
1275. Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ
Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người
huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm
đường mở ngôi hàng Lâm chuy.
1-Tích Hàn Hủ
đời Đường làm quan xa để người vợ lẻ là Liễu thị ở đường Chương Đài trong thành
Tràng An hơn 3 năm. Mỗi khi viết thư về gọi là “Chương Đài Liễu.”Sau Liễu thị bị tướng phiên cướp đi. Tướng Hứa
Tuấn dùng mưu cướp lai được. Vua cho về với Hàn Hủ. Tình sử chép chuyện ấy thì
nói: Hàn Hủ gởi thư cho Liễu thị có câu “Chương
đài liễu, tích nhật thanh thanh kim tại phủ, giả ưng phan chiết thá nhân thủ”nghĩa
là cây liễu chương đài xưa xanh xanh nay còn không, hay là tay khác bẻ mất
rồi.2-Giấc hương quan là mằm mê thấy về cố hương.3-Tống thi có câu “Khấp tổn song mâu tràng dục đoạn phạ hoàng
hôn đáo hựu hôn hoàng.”Khóc hại cả mắt, đứt cả ruột, sợ rằng hết chiều nay
lại đến chiều mai cứ thế mãi.
Trang Liền Trước Trang Liền Sau
Trang Liền Trước Trang Liền Sau
0 nhận xét:
Đăng nhận xét