Lấy tên Trận Đống Đa
là ý nhắm vào cái nổi bậc nhất chứ đúng đó là trận Quang Trung(QT) đại phá quân Thanh. Cũng như chỉ chú ý vào quân số và thần tốc là cốt để nêu lên cái độc đáo của trận Đại Phá ấy.
là ý nhắm vào cái nổi bậc nhất chứ đúng đó là trận Quang Trung(QT) đại phá quân Thanh. Cũng như chỉ chú ý vào quân số và thần tốc là cốt để nêu lên cái độc đáo của trận Đại Phá ấy.
Quân số. Dựa vào con số để nhiều
tác giả không tiếc lời ca ngợi QT. Ca ngợi thái quá làm người ta hoài nghi chuyện
không có thật như bài viết. Vin vào con số 29 vạn quân Thanh trong sử Việt và
việc thây bỏ lại 12-13 gò đống ở Đống Đa mà nhiều tác giả quá ca ngợi trận đánh
nên viết quá đáng để có nhiều điều sai với chính sử. Wikipedia đã bác bỏ tư liệu
viết sai của nhiều nhà biên khảo thế kỷ 20 về nhà Tây Sơn mà bài Thảo Luận Trận
Ngọc Hồi Đống Đa vẫn còn dài lê thê bàn về con số thực của trận đánh. Phe nói
thấp(chừng 10 vạn hay ít hơn) và phe nói cao(29 vạn hay hơn) không bên nào thuyết
phục hoàn toàn được. Ngã ngũ tạm tin ở con số 15-20 vạn. Việt Nam Sử Lược(VNSL)
cũng chỉ nói 20 vạn. Đại khái 29 vạn thì đóng dày đặc từ Sơn Tây(Ô Đại Kinh) đến
Đống Đa Khương Thượng(Sầm Nghi Đống), tới Ngọc Hồi, Hà Hồi, thành Thăng
Long(Tôn Sĩ Nghị), các đồn phía Nam(Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long) thì TS làm
sao giữ được bí mật để đánh úp. Dựa vào sổ sách chi tiêu của Thanh triều và các
lý luận suy từ diễn biến các trận đánh cũng không thể nói lớn(29 vạn) hay nói nhỏ
hơn(10 vạn) được. Các tác giả còn nói người Thanh nói ít là cốt để che dấu thất
bại của mình và vân vân. Thế còn chuyện thần tốc lại còn gay go để gải thích, cắt
nghĩa nữa.
Thần tốc thấy ở buồi ban đầu. Nói đến
Nguyễn Huệ(NH) thì ai cũng nghĩ ngay đến bí mật và thần tốc. Ngay lần đầu tiên
xuất hiện trong sử sách ta đã thấy 1 Nguyễn Huệ đánh thần tốc trong trận đánh
úp Tống Phước Hiệp ở Phú Yên năm 1775 sau khi lấy việc lập Đông Cung lừa được
quân ngũ dinh của Tống Phước Hiệp(TPH). Trận rạch Gầm đại phá quân Xiêm cuối
năm 1784 cũng mang tính bí mật và thần tốc. Không biết trận này xảy ra trong mấy
ngày chỉ biết Gia Định Thành Thông Chí(GĐTTC) đoạn viết cương vực Hà Tiên nói tháng
11-1784 quân của Trương Văn Đa thua quân của Chu Văn Tiếp(CVT) liểng xiểng ở đồn
Trà Luật và Ba Lai rồi 18 tháng 12-1784 lại thấy vua Nguyễn Ánh thua chạy về Trấn
Giang. Trận rạch Gầm xảy vào ngày nào và kéo dài bao lâu chánh sử không nói rõ.
Không biết các bài viết hiện tại dựa vào đâu mà mô tả rõ ngày giờ trận đánh và
rất chi tiết. Không biết đích xác thời gian nhưng biết trong vòng 1 tháng(11-12)
mà 2 vạn và 300 thuyền chiến quân Xiêm bị tiêu diệt. Không gọi thần tốc thì gọi
là gì. Muốn “oai” vài tác giả còn ghi rõ cả ngày giờ cho rõ tính chóng vánh của
chiến trường. Đại Nam Thực Lục thì nói tháng 12-1784 Nguyễn Huệ vào cứu viện,
đánh vài trận không được, muốn lui về. Có tên phản thần Lê Xuân Giác bày kế đem
quân mạnh mai phục ở rạch Gầm để dụ quân Xiêm. Nếu mô tả “Đánh vài trận không
được muốn lui về” như trên hay “Năm 1776 Nguyễn Huệ(NH) vào đánh Bình Thuận
không thắng” như Việt Sử Xứ Đàng Trong(VSXĐT) dẫn Phủ Biên Tạp Lục thì ta thấy NH
tầm thường. Nếu có ý muốn ca NH thì có thể lái ý của trang sử và mô tả như sau đây.
Liên quân Xiêm-Chu Văn Tiếp đang ở thế mạnh áp đảo quân Trương Văn Đa. Nguyễn
Huệ vào giả vờ thua để địch kiêu căng rồi bí mật lừa vào chổ hiểm mà đánh. Nếu
không nêu tên phản thần Lê Xuân Giác bày kế đó thì trang viết sẽ nêu nổi bậc
tài năng và mưu mẹo của NH lên gấp bội(tự ý NH định đoạt chiến trường chứ không
nghe lời tên Giác bày mưu). Các tác giả có cảm tính với TS thường viết những
bài như thế. Ở đây tôi không biết sự thực là đâu bỡi vì NH đã từng tham chiến ở
chiến trường này chắc am hiểu khu chiến lược Ba Giồng của Đỗ Thành Nhân nên có sáng
kiến đó, chủ mưu dụ lừa địch cần gì tên Lê Xuân Giác. Chiến thắng có tính tích
cực. Nhưng cũng có thể Lê Xuân Giác hiểu việc này hơn nên mới bày kế cho NH và
NH thắng là 1 dịp may do được bày mưu. Chiến thắng có tính thụ động hơn. Không
biết NH hay Lê Xuân Giác ai đã chủ trương lừa được địch. Không biết đâu đúng đâu
sai cả. Tôi thích suy tư theo kiểu đa chiều nên hay đưa ra phản biện để nhìn sự
kiện ở thế đa chiều.
Nhiều tác giả ngày nay mô tả
trận chiến xảy ra trên sông Tiền thuộc đoạn rạch Gầm thường tình là 1 khúc sông
rộng chẳng có gì hiểm yếu cả. Họ không hiểu hiểm yếu là ở chỗ nào. Họ không biết
lịch sử và địa thế vùng này nên họ không để ý đến GĐTTC viết. Khi quân Xiêm đến
rạch Gầm, do không thuộc địa thế chỗ nào hiểm chỗ nào không, lại bị giặc lừa vào đường
cùng rồi bị phục binh vừa thủy vừa bộ ra chận đánh. Cả cánh quân đều
thua hết. Lừa vào đường cùng là lừa vào hệ thống sông rạch bên tả ngạn sông Tiền
nằm giữa 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng của đạo Trường Đồn trấn Định Tường
trong Đồng Tháp đấy(muốn lừa được thì phải giữ bí mật). Thời VNCH binh sĩ còn sợ
2 trong 3 cái hang kiến lửa đó: Kiến Hòa, Kiến Tường, Kiến Phong. Quân Chân Lạp
và quân Nguyễn cũng đã từng lừa đối thủ như thế.
Trường họp tương tợ ở trận
Ngọc Hồi. Hoàng Lê Nhất Thống Chí(HLNTC) mô tả Nguyễn Văn Bình(NH) đánh đồn
sáng mồng 4 không vội và không bí mật như tối mồng 3 đánh Hà Hồi. Di chuyển và
vây đồn Hà Hồi, Bình giữ bí mật cho đến khi bắt loa kêu gọi binh sĩ đồng loạt dạ
ran thì quân Thanh ở trong đồn Hà Hồi mới hay bị hơn vạn binh bao vây nên hoàng
hốt đầu hàng. Cũng chuyện ngừng không đánh vội đồn Ngọc Hồi mà có tác giả diễn
dịch là do đồn Ngọc Hồi đông quân(Thảo Luận Trận Ngọc Hồi Đống Đa trên
wikipedia nói trên). Có tác giả lại nói dừng lại là mưu trí của NH. NH “nhử” để
quân Thanh chú ý mặt trận này chờ đêm đó cánh quân của đô đốc Long lẻn thanh
toán quân của Sầm Nghi Đống ở Đống Đa thành công rồi sáng mồng 5 NH mới tấn
công Ngọc Hồi. Lập luận đó có thể tin được vì HLNTC viết mồng 4 quân Ngọc Hồi cấp
báo “tướng trên
trời xuống, quân chui dưới đất lên” lại nói Hà Hồi bị đánh úp và bị
bắt hết. Ngọc Hồi sớm muộn gì cũng bị đánh. Sĩ Nghị sai Thang Hùng Hiệp đem
nghĩa binh và 20 kỵ binh dưới trướng đến cứu, dặn chốc lát báo tin ngay. Sĩ nghị
chỉ có nghi mặt đó. Không ngờ canh tư đêm đó phía TâyBắc súng nổ rền trời và nghe
báo đồn Điền Châu(Đống Đa) bị vỡ. Biết tin vào đâu. Vì địch đông mà không dám
đánh hay không đánh cốt để âm mưu nghi binh lừa địch chú ý mặt này để quân mình
đánh mặt kia rồi mới dứt điểm sau. NH sao có nhiều huyền thoại. Theo sử liệu viết
nghiêm chỉnh mà còn viết như thế này hay như thế kia huống chi viết tự do không
cần dựa chính sử. Thành ra có lắm “huyền thoại” được dựng lên.
Thần tốc thấy trên đường Nguyễn Huệ ra Bắc. Bắt đầu
năm 1786 NH rời chiến trường Gia Định đi ra Bắc sau khi thắng trận rạch Gầm cuối
năm 1784 thu 300 chiến thuyền và khí tài của cả 1 đạo quân 2 vạn quân Xiêm. NH bắt
đầu thực hiện được nhiều sự kiện lừng danh. Trước tiên nên nói tới người đồng
hành với ông là “danh nhân” Nguyễn Hữu Chỉnh(NHC). HLNTC nói NHC ở làng Đông Hải
Nghệ An có biệt danh con hải ưng chống giặc biển là người dưới trướng của quận
Huy triều Trịnh Sâm. Biến cố 1782 quận Huy bị giết. Chỉnh xui trấn thủ Nghệ An
cùng phó tướng quận Thể ở trấn Thuận Hóa và Khôi Thọ hầu đóng ở Động Hải cướp 2
trấn nghệ An-Thuận Hóa cố thủ chống phe nổi loạn ở triều đình họ Trịnh. Trấn thủ
Nghệ An không nghe. Chỉnh vượt biển bỏ vào Qui Nhơn theo Nhạc. Nhạc mến tài. Chỉnh-Nhạc
trở nên thân mật. Chỉnh hết lòng thờ Nhạc, bày kế cho Nhạc chiếm đất đai các nước
Chiêm Thành, Xiêm La, Bồn Man. Rồi Chỉnh tự mình cầm quân đi tiên phong xông
pha vào những nơi tên đạn, khiến mấy nước lân cận ấy lần lượt đều bị đánh bại. Chiếm
đất Chiêm Thành, Xiêm La có phải các trận Tây Sơn vượt biển vào Gia Định năm 1782,
1783, 1784-85? Bộ Đại Nam không mô tả Chỉnh tham gia chiến trường này. Nếu
HLNTC viết đúng thì Chỉnh biết khả năng vượt biển của TS. Chỉnh lấy đó làm tiền
đề sau này xui NH tin tưởng khả năng có thể tiến ra Bắc. HLNTC nói năm 1786 Tạo
quận công ở Thuận Hóa sai Nguyễn Phu Như vào Qui Nhơn bàn về biên giới 2 xứ Trịnh-Tây
Sơn. Phu Như cho Chỉnh biết Thuận Hóa có thể lấy được. Như diều gặp gió, Nguyễn
Hữu Chỉnh làm hữu tướng quân đô đốc, Nguyễn Văn Bình(NH) làm tả tướng quân đô đốc
cùng Võ Văn Nhậm(tiết chế quân Gia Định được NH dụ về và được Nhạc gả con gái
cho) tiến quân ra Bắc 1 cách ngoạn mục. Lấy thành Phú Xuân 1 cách dễ dàng là
cho thám tử giả làm khách tướng số người Tàu xui quận Tạo làm chay 7 ngày 7 đêm
để binh sĩ mệt mỏi và gởi thơ xui phó tướng quận Thể(bạn của Chỉnh) ra hàng
nhưng gởi nhầm cho quận Tạo. Tạo nẩy ý định đầu hàng nên ém nhẹm bức thơ. Quân
Thủy TS vào thành. Quân trên thành bắn xuống như mưa. Quân TS chui vào thuyền để
lui ra. Đêm đến nước dâng lên sát thành. Quân bắn được lên thành và đổ bộ lên
đánh. Quận Thể mở cữa sau ra chận đánh. Quận Tạo đóng cữa Thành. Rồi quận Thể
vào thành lấy thêm vũ khí thì quận Tạo không cho vô. Trên thành kéo cờ trắng đầu
hàng. Cha con quận Thể tử trận. Ngày 14-5-1786 quân kéo ra Động Hải. Trấn Thuận
Hóa mất. Rồi Nguyễn Hữu Chỉnh xui TS tiến ra lấy Bắc Hà. Nguyễn Văn Bình cho
NHC đi trước đến Nam Định thì đốt lửa hiệu. Ngày 6-6-1786 NHC vào sông Vị
Hoàng. Bình đem ngàn lâu thuyền(thuyền lớn có lầu) tiến lên họp quân với Chỉnh.
Dân nghệ An lên núi trông ra thấy lâu thuyền đầy cờ xí than “Cõng rắng cắn gà
nhà. Hắn ta thật có tội. Song cũng là 1 việc không mấy đời có.” Thuận gió Bình vào kinh ngày 26-6-1786.
Chúa Trịnh Khải chạy về hướng Tây, bị bắt giải giải đến quân TS. Chúa tự vẫn
27-6-1786. Kiêu binh tan hàng. Hành quân 42 ngày(14/5 đến 26/6) lấy được đất Bắc vào mùa
thuận gió. Thần tốc đấy sao không ca mà ca trận 1789 hành quân 40
ngày(25 tháng Chạp-1788 đến mồng 5 năm sau).
Bỏ đất Bắc rút về Nam. Hồi
thứ 5, HLNTC nói việc Bình ở kinh thành Thăng Long và nói Nhạc ra tới kinh đô
ngày 5-8-1786. Hồi thứ 6 kể việc Nhạc nhận được thư ngày 14-7-1786 Bình báo lấy
được kinh đô thì lên đường ra Bắc và việc 2 anh em ra mắt vua Lê. Ngày 17 tháng
ấy(tức tháng 8) vua TS bí mật ra lịnh binh sĩ nai nịt gọn gàng. Không ai biết quân
sẽ rút về Nam lúc nào. Trước đó doanh trại TS đêm nào đầu hôm chiêng trống cũng
inh ỏi, thưa dần, thưa dần rồi im lặng về khuya cứ như quân rút đi hết rồi.
Sáng ra thì vẫn thấy còn đấy. Một hôm sáng ra thì thấy họ đã xuống thuyền đi hết
rồi. NHC thất vía cướp thuyền chạy theo tới Nghệ An thì bắt gặp. Vua TS cho Chỉnh
trấn đất Nghệ An. Rút về cũng thần tốc và bí mật. Tháng này còn gió
Tây Nam, tức đi ngược gió.
Ra Bắc Hà lần 2 bắt giết Vũ
Văn Nhậm. HLNTC viết năm 1786 TS cho
NHC đóng ở Nghệ An, Nguyễn Duệ ở Hà Tĩnh, Vũ Văn Nhậm ở Động Hải, Quảng Bình.
Vua Lê triệu Chỉnh về triều. Chỉnh mưu với Duệ chiếm lại Nghệ An cho triều Lê
Trịnh. Vũ Văn Nhậm đem quân Tây Sơn đánh ra Bắc rồi giết Chỉnh. Nhậm cai trị đất
Bắc. Ngô Văn Sở cho Nhậm mưu làm phản báo cho Bắc Bình Vương NH biết. NH ra bắc
giết Nhậm. Chừng 10 ngày thì đến Thăng Long. Điểm trống canh tư. Nhậm đang ngủ
say trong phủ. Bắc Bình Vương vào thành, đến thẳng chỗ Nhậm nằm. Nhậm vẫn không
hay biết. BBV sai võ sĩ Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm. Khâm Định Việt Sử(KĐVS)
thì mô tả sự việc hòa hoãn hơn. Tháng 4 năm 1788, Văn Huệ vào thành Thăng Long
giết Văn Nhậm. Văn Nhậm có làm vài việc trái phép như tự đúc ấn chương, chuyên
quyền cất nhắc xếp đặt quan lại nhưng Sở ghét Nhậm vu oan Nhậm làm phản. KĐVS lại
viết Văn Nhậm ra ngoài thành đón. Văn Huệ vỗ về an ủi, nhường ngựa, nhường lọng
cho. Vào thành Văn Huệ sai trói, tra khảo. Không có chứng cứ thật nhưng Văn Huệ
nói quyết đoán rằng “Không cần nói nhiều. Mày có tài trội hơn ta thì không phải
là người mà ta dùng được.” Văn Huệ sai chém. Mô tả 1 nhân vật xử sự
việc 1 cách thần tốc, quyết đoán nhưng mỗi sách mô tả 1 cách khác nhau.
Không Thần tốc chi cả, chỉ di chuyển nhanh gấp
đôi hơn các trận đánh có trước thấy trong lịch sử. Trận 1788-89
không những được ca ngợi về mặt diệt được con số lớn giặc xâm lăng(29 vạn) mà
còn được ca ngợi là cuộc hành quân thần tốc có 1 không 2 trong lịch sử. Thanh
toán chiến trường trong 6 ngày(30 tháng Chạp đến mồng 5 tháng Giêng) và di quân
hơn 500km(Phú Xuân-Tam Điệp) trong 5 ngày như HLNTC và 1 số bài viết hay 25 ngày
như trong các tài liệu khác. Thật hư như thế nào nên xét xem.
Thần tốc hóa. Như ở trên vừa
nói cũng chuyện Quang Trung(QT) tức tốc ra diệt Võ Văn Nhậm mà 2 sách viết khác
nhau. HLNTC là sách tiểu thuyết cốt sao phản ảnh được bức tranh xã hội. Có thể
hư cấu nhân vật, sự việc cho phù hợp “luận đề” đã đặt ra, một lý thuyết theo ý
đồ của tác giả. Nhưng những tác giả trong HLNTC lại viết việc đồng thời với họ
nên sự việc trong sách dù hư cấu vẫn có thể có thật. Độc giả lại không để ý
tính chất tiểu thuyết nên hiểu các nhân vật y như nhân vật trong sử. Truyện Kể
thành Sử. Không biết bản chữ quốc ngữ dịch sai hay in sai hay bản gốc HLNTC cố
tình nói ngày xuất quân là ngày 25 tháng chạp Mậu Thân(1788). Sách viết tiếp ngày 29
đến Nghệ An(không nói tháng nào). Ra tới Tam Điệp vào ngày 30 tháng chạp,
khao quân rồi chia thành 5 đạo, tối 30 lên đường(hồi thứ 14). Mô tả trận đánh thật
thần tốc ngoạn mục. Các sách ca ngợi cứ thế viết ra mới có chuyện thanh toán
chiến tường trong 6 ngày(30 đến mồng 5) và di chuyển vòng 5 ngày(25 đến 30
tháng Chạp). Các bài viết và tài liệu khác thì nói hòa hoãn hơn. Xuất quân ngày
25 tháng 11
chứ không phải 25 tháng Chạp Mậu Thân. Ngày 29 tháng 11 Mậu Thân(26-12-1788) tới Nghệ An, 20 tháng Chạp
Mậu Thân tới Tam Điệp. Tức di chuyển quân 25 ngày, mất tính thần tốc gấp bội. Sai trái là do
sách dịch sai, in sai( nhiều bản điện tử ghi 25 tháng Chạp) hay cũng có thể sách
dịch lầm ngày Âm với ngày Dương. Bài viết có cảm tình với nhà TS cứ thế mà viết
bài ca(25 tháng Chạp) không hề thắc mắc. Do đó lắm cách lý giải tại làm sao QT di
quân 1 cách siêu thần tốc như thế. Trong số lý giải có không ít lý giải chủ
quan theo ý của tác giả. Có lý giải cũng dựa vào sách.
Một ví dụ là cách di chuyễn
cõng người hay võng người. Quân chia tổ 3 người. Hai người võng một, cứ thế
thay nhau. Tra cứu thì thấy bài viết dẫn Lê Triều Dã Sử. Lại là tại chuyện dân
gian kể như thế. Phan Duy Kha trên trang mạng Bee.net,vn cũng dẫn Lê Triều Dã Sử
nhưng chữa lại là không phải cáng người mà cáng quân trang. Người dân trông thấy
nên gọi là cáng nhau. Không phải cáng bằng võng mà là thuyền cáng. Thuyền có thể
để làm liều che mưa hay để vượt sông. Tác giả nói ông ta là người Nghệ An và được
ghe ông bà truyền khẩu kể lại và đưa ra câu dân ca hát: “Giúp quân thần tốc/Không kể
ngày đêm/Đi đường làm cáng/ Xuống nước là thuyền/Trời mưa làm lán/Xung trận
thành khiên/Quân đi như nước/ Trên cáng dưới thuyền.”
Không thần tốc chi cả nếu
như ngày xuất quân là 25 tháng 11. Việt Nam Sử Lược(VNSL) nói xuất quân ngày 25
tháng 11,
tới Tam Điệp ngày 20 tháng Chạp, đi hết 25 ngày, tới mồng 5 là mất 40 ngày
như lần trước ra Thăng Long mất 42 ngày nói trên thì có gì gọi là thần tốc. Những
bài viết không quá đề cao có xu hướng mô tả theo lịch hành quân này. Thử xem với
thời gian như thế có thể tin được hay không.
Trên 500km hành quân có thể
mất 1 tháng.
Mất 1 tháng xưa nay thấy có gặp vài lần như lần ra bắc thứ nhất đã nói ở trên. Tại
sao trận ra bắc Hà lần 1 không ai ca là thần tốc cả. Có lẽ ta đánh ta không có
gì ghê gớm hơn đánh Tây đánh Tàu chăng?
Nhưng trận đánh Chiêm Thành
năm Canh Dần(1470)
từ Thăng Long đến Thuận Hóa, Lê Thánh Tôn cũng chuyển quân trong vòng 1 tháng
không thấy ai ca. Tháng 11 ngày mồng 6 xuống chiếu đánh Chiêm và sai Đinh Liệt,
Lê Niệm dẫn 10 vạn quân đi trước, mồng 7 bá cáo ở Thái Miếu, ngày 16 vua đem 15
vạn thủy binh đi sau, ngày 3/12 đại giá xuất phát từ Thiết Sơn(ghi chú số 1898
nói ở Nghệ An và như vậy Thăng Long tới Nghệ An mất dưới 20 ngày. Nghệ An ra Tam Điệp QT mất 20 ngày
không gọi là gì hơn cả), ngày 18/12 thủy quân đến đất Chiêm Thành. Như vậy vua
đi mất 1 tháng chẳng ai ca thần tốc và sáng kiến đun lúa thành “gạo nấu chín” của
Nguyễn Văn Chất không ai lưu tâm ca ngợi cả. Nhưng trận đánh của vua Lê thì
không bí mật và thần tốc thật. Vua cho tập trận ở Thuận Hóa, đến mồng 6 tháng
giêng mới bắt Bồng Nga Sa ở cữa quan Cụ Đê đèo Hải Vân. Trà Toàn đem quân
nghênh chiến tới 2 tháng. Mãi tới mồng 1 tháng 3 năm 1471 vua mới hạ được thành
Đồ Bàn.
Trận Trịnh Tùng lấy Đông
Đô(Thăng Long) năm 1591. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư(ĐVSKTT) viết tháng 12(không nói rõ ngày nào) năm 1591, tiết
chế Trịnh Tùng bàn việc ra quân, chia thành 5 đội tiến phát. Đội 1 Nguyễn Hữu
Liêu lãnh 1 vạn tiên phong đi trước. Đội 2 Hoàng Đình Ái dẫn voi ngựa cùng 1 vạn
quân. Đội 3 thái bảo Ngạn dẫn 1 vạn giáp binh voi ngựa. Đội 4 tiết chế Trịnh
Tùng dẫn 2 vạn binh mã trung quân. Đội 5 hậu quân chở lương. Hơn 5 vạn quân(QT
dẫn cũng 5 vạn, tuyển thêm 5 vạn lính mới ở Nhệ An). Quân từ Tây Đô đi ra theo
ngả huyện Quảng Bình,(ghi chú số 2588 nói nay là Tây Bắc huyện Thạch Thành
Thanh Hóa) qua phủ Thiên Quan, đi gấp hơn 10 ngày đến núi Mã Yên(ghi chú số 2589 nói nay thuộc
huyện Quảng Oai Hà
Tây) ở đầu địa giới Sơn Tây thì đóng quân lại. Ngày hôm sau qua núi
Mường Động(ghi chú số 2590 nói nay là 2 huyện Thanh Sơn Thanh Thủy Vĩnh Phú), đến
núi Ma nghĩa(ghi chú số 2591 nói nay là Hà Tây) Không đến 10 ngày dẹp yên các huyện Yên Sơn,
Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong(ghi chú nói Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong đều thuộc tỉnh
Sơn Tây cũ, nay là Hà Tây), rồi đóng
ở Tốt Lâm(chưa rõ ở đâu). Ngày 30 tháng Chạp tấn công thành Thăng Long. Ngày mồng
3 tết Trịnh Tùng lập đàn làm lễ tế trời đất. Hành quân từ tháng Chạp đến tết là
mất 1
tháng. Đoạn Thạch Thành(Thanh Hóa) đến Quảng Oai(Hà Tây) mất 10 ngày,
dẹp yên các huyện ở Sơn Tây mất 10 ngày nữa(QT đánh thẳng vào thành không vướn mắc
10 ngày đánh dẹp linh tinh). Trang web Đại Đoàn Kêt, nhà sử học Bùi Thiết đưa
ra giả thuyết Quang Trung(QT) hành quân qua ngả thượng đạo(như trận Trịnh Tùng
vừa mô tả) Nghệ An-Thanh Hóa-Hà Tây đưa ra tuyến hành quân có địa danh Thạch
Thành như sau:
“Từ Nam Đàn thẳng ra Tân Kỳ - Như Xuân -
Vĩnh Lộc - Thạch
Thành (Thanh Hóa); từ đó ra Nho Quan, đến
Chương Mỹ rồi vào Thăng Long”. Hành
quân qua ngả Thượng Đạo, QT mất 36 ngày(29/11 Mậu Thân đến mồng 5 KỷDậu) đi từ
Nghệ An. Trịnh Tùng khởi binh không biết
ngày nào trong tháng Chạp, đi đoạn ngắn hơn là từ Tây Đô nhưng có vướn đánh
nhau ở Sơn Tây. Cả 2 đều hạ thành Thăng Long vào dịp tết. Ai thần tốc hơn ai. Nếu
giả thuyết của Bùi Thiết nói TS theo Thượng Đạo đúng thì cả 2 coi như “Xem xem=
same same” thôi.
Trận
năm Tân Dậu 1801
Nguyễn Vương Ánh lấy thành Phú Xuân. ĐN Thực Lục viết tháng giêng lấy được cữa
Thị Nại, tháng 2 dời hành dinh từ Cù Mông ra Thị Nại rồi tiến lên Quảng Ngãi.
Tháng 3 chiếm Quảng Nam nhưng chưa quyết chiếm Phú Xuân. Tháng 4 binh mới tuyển
ở Gia Định được đưa tới Thị Nại. Vua cho người lẻn vào thành đưa mật thư bảo Võ
Tánh trốn ra hội với đại quân. Phúc thư Võ Tánh nói cố chết giữ thành để cầm
chân Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng, khuyên vua kiếp ra lấy Phú Xuân. Ngày Canh
Ngọ(24-4 năm Tân Dậu tức 5-6-1801) vua thân đốc chiến ra cữa Thị Nai. Ngày
NhâmThân(26-4) đến Chiêm Dữ tức Cù Lao Chàm. Ngày QúiDậu(27-4) dừng ở Đà Nẵng.
Ngày BínhTí(1-5) vào cữa Tư Dung. Ngày MậuDần(3-5) lấy kinh đô Phú Xuân. Huế-Qui
Nhơn dài 407km thuyền đi mất 9 ngày(24-4 đến 3-5) vào đầu mùa gió TâyNam. Năm
1786 Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Văn Bình đi chuyển từ Động Hải đến Nam Định(chừng
400km) mất 22 ngày(14-5
đến 6-6) vào chính mùa gió TâyNam. Có gì gọi là thần tốc.
Trận năm 1782. ĐN
thực lục nói tháng 8-1782 Chu Văn Tiếp(CVT)
đánh đuổi Đỗ Nhàn Trập lấy lại Gia Định sau khi NN và NH dẫn quân về Qui Nhơn tháng
5-1782, tức di chuyển từ Phú Yên tới Gia Định(500km) dưới 3 tháng(khoảng sau tháng
5-1782 đến tháng 8-1782) theo thượng đạo vì năm 1781 TS đã đóng quân ở Bình
Khang Diên Khánh cắt đứt đường đi rồi. CVT di chuyển cỡ gấp đôi thời gian QT di
chuyển(Phú Xuân-Thăng Long dài trên 600km trong 40 ngày).
Gỉa thuyết QT ém quân trước và dùng đường
thượng đạo. Blog Lưu Quốc Bảo nói
quân Tây Sơn không phải là một binh đội duy nhất từ trong Nam kéo ra mà do nhiều
đơn vị địa phương có thể di chuyển đến nơi tập kết để tham gia chiến dịch. Nguyễn
Huệ chỉ dẫn 1 số kinh binh tương đối nhỏ và nhẹ từ Phú Xuân ra. Trang web Đại
Đoàn Kết nhà sử học Bùi Thiết lại đưa ra giả thuyết nói QT xử dụng thượng đạo
Nam Đàn-TânKỳ-NhưXuân-VĩnhLộc-ThạchThành. Hết địa phận ThanhHóa thì đến Nho
Quan-ChươngMỹ rồi vào ThăngLong bỏ đi qua Tam Điệp như đã nói ở trên. Di hành ở
đầu nguồn để voi khỏi qua sông rộng và có nhiều cây cỏ cho nó ăn và giữ được bí
mật. Tác giả lại nói bí mật này thời QT không được tiết lộ và sách đương thời
không ai viết. Tôi đồng tình với 2 tác giả. Hành quân xử dụng thượng đạo(Bùi
Thiết) và ém quân(Lưu Quốc Bảo).
Người xưa đã nhiều lần xử dụng
thượng đạo để đánh vào kinh đô Thăng Long. Năm 1691 Trịnh Tùng đã xử dụng tuyến đường
này để ra lấy thành Đông Đô(Thăng Long) như nói trên đây. Đời nhà Trần Chế Bồng Nga(CBN)
đã cũng dùng thượng đạo uy hiếp kinh đô. ĐVSKTT viết Năm Qúi Hợi(1383) CBN cùng
La Ngải(LN) theo đường núi từ trấn Quảng Oai(ghi chú số 1164 nói cuối Trần gọi
là phủ Quảng Oai, nay là 1 phần của huyện BaVì HàNội) dò đường đến đóng ở sách
Khổng Mục. Kinh sư kinh động. Lê Mật Ôn đem quân chống giữ bị quân voi Chiêm mai
phục ở chân núi Tam Kỳ(chú thích nói nay là phủ Quảng Oai) xông ra bắt sống. Năm
CanhNgọ(1390) CBN đem thủy binh vào đánh kinh đô bị bắn chết bất ngờ. La Ngải dẫn
tàn quân đến phía trên bờ sông Lô hỏa táng xác CBN rồi ngày đêm đi bộ men theo
chân núi, gác đường sàn đạo(ghi chú nói gác gỗ làm đường), nấu cơm trên đó, rồi
vừa đi vừa ăn, đem cả quân trở về(đại binh chắc còn lớn lắm vì tình cờ CBN bị
trúng tên chứ quân nhà Trần có đánh đấm gì đâu). Bị đuổi đánh thì dừng voi(có cả
voi nữa) lại, tung tiền bạc của cải để quân ta dừng lại. Lê Lợi khởi nghĩa năm 1418 chống
quân Minh cũng hành quân dọc theo trục thượng đạo NghệAn-ThanhHóa. Trên trục
hành quân, bản doanh Lam Sơn nằm trên sông Chu gần biên giới NghệAn-ThanhHóa. ĐVSKTT
viết năm 1419 đánh đồn Nga Lạc gần Lam Sơn. Năm 1420 mai phục ở bến Bống đầu
nguồn sông Chu. Tháng 12 tiến quân đóng ở sách Ba Lâm thuộc Thanh Hóa. Năm 1421
tiến ra đóng ở sách Thủy cũng thuộc Thanh Hóa. Năm 1422 tháng 2 bị vây ở sách
Khôi thuộc trấn Thiên Quang ở giữa Nho Quang thuộc Ninh Bình và Thạch Thành thuộc Thanh
Hóa phải tử chiến rồi năm 1423 đem quân về lại Lam Sơn, không tiến ra trung
châu nữa. Năm 1424 tháng 9 đánh đồn Đa Căng bên hữu ngạn sông Chu rồi tiến vào Nam
bao vây Trần Trí ở thành NghệAn và thắng lớn. Năm 1425 tiếp tục vào Nam thu phục
Tân Bình Thuận Hóa. Vương Thông cứu viện Trần Trí. Quân Minh tập trung ở Nghệ
An nên năm 1426 Lê Lợi lại tiến ra Bắc, vào trung châu, cho quân đi tuần các xứ
Thiên Quan, Quảng Oai, Quốc Oai, Đà Giang, Tam Đới, Tuyên Quan để cắt đứt viện
binh từ Vân Nam sang; tuần các xứ Khoái Châu, Bắc Giang, Lạng Giang để chận viện
binh từ lưỡng Quảng tới. Vương Thông bị vây ở thành Đông Quan(Thăng Long). Viện
binh Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị chận đánh tan. Đến năm 1428 Lê Lợi giải huề với
Vương Thông thu hồi được nền độc lập. Lê Lợi phải anh hùng hơn Nguyễn Huệ chứ!
Ngoài chuyện di chuyển bằng
đường thượng đạo như xưa, việc ém quân trước(theo như Lưu Quốc Bảo) thì cũng có
lý. Chuyện xảy ra dồn dập. Năm 1786 hai anh em TS rút toàn bộ quân khỏi Bắc Hà
chỉ cho NHC đóng ở Nghệ An thuộc Bắc Hà mà thôi. Rồi Lê triều triệu NHC về
giúp. Năm 1787 thì NH sai Vũ Văn Nhậm(VVN) ra giết NHC rồi trông coi Bắc Hà.
Năm 1788 NH lại ra giết VVN. Việc như thế thì nghĩ NH không thể bỏ ngỏ đất Bắc
Hà đâu. Hậu sự của nó nhà lãnh đạo này phải canh cánh bên lòng và có kế hoạch sắp
xếp. Chẳng lẽ vị tướng này cam chịu hạn hẹp trong lãnh thổ ngắn chũn từ Hải Vân
hay từ Quảng Nam đến Nghệ An hay sao? Trận năm 1789 này là kết quả sự chìn muồi
kinh nghiệm từ việc đánh Xiêm ngoại xâm cuối năm 1784, trận đánh ra Bắc năm
1786, việc 2 anh em Nguyễn Nhạc-Nguyễn Huệ
không hòa thuận đánh nhau năm 1787 cho nên phải có việc tính toán kỹ
đánh Bắc Hà lần này sau 3 lần “thử lửa” ra Bắc: Cùng Chỉnh ra Bắc năm 1786, VVN
giết Chỉnh năm 1787 và QT ra giết Vũ Văn Nhậm năm 1788. Việc ém quân và di quân
tính toán trước phải xảy ra. NH ý thức đất ThanhNghệ thông qua Lào và thông ra
đất trung châu. Trung Châu ở bên kia rặng núi đá vôi từ Sơn La ở TâyBắc chạy thẳng
xuống ĐôngNam tới TamĐiệp ngăn chia Thanh Hóa với NinhBình-HòaBình-SơnTây của trung
châu với 2 cửa ngỏ(Tây Bắc huyện Thạch Thành nói trên và Tam Điệp), đất quan trọng
như đã thấy trong các cuộc hành quân nói trên kia. Làm sao QT không tính chuyện
ém quân ở đây được. Chẳng phải sau này QT chọn Nghệ An làm Phượng Hoàng Trung
Đô hay sao? NH phải để quân mạnh đóng giữ nơi đây(thượng đạo ThanhNghệ). Ngày 29-11
Mậu Thân(1788) đến Nghệ An thì QT chỉ việc động binh và hẹn điểm gặp là được.
Mười ngày ở lại Nghệ An chỉ để tuyển binh thêm và nghi binh để các cánh tiền
tiêu bí mật di chuyển. Các tác giả trừ 10 ngày lưu binh ở Nghệ An cốt để tăng
tính thần tốc thì đã lầm lẫn. Lương thực vũ khí và quân chủ lực có thể bí mật
di chuyển ngay từ ngày 29-11 hay ngay từ ngày xuất quân 25 tháng 11 Mậu Thân rồi,
tức cả gần tháng để đến điểm hẹn ở Tam Điệp hay ở Sơn Tây. Sách HLNTC có thể
theo mặt nổi chuyện dân gian và chuyện kể trong Lê Triều Dã Sử như chuyện tổ ba người, 2
người cáng 1 người “Giúp quân thần tốc/Không kể ngày đêm/Đi đường làm cáng/ Xuống nước là
thuyền/Trời mưa làm lán/Xung trận thành khiên/Quân đi như nước/ Trên cáng dưới
thuyền” nói trên hay như trong Đại nam Quốc Sử Diễn Ca của Ngô Gia
Cát-Phạm Đình Toái viết “Quân Dung đâu mới lạ nhường/ Mão mao áo đỏ chật đường kéo ra” là
cánh quân trung đạo có QT lãnh đạo mà ai cũng thấy. Tôi đưa thêm giả thuyết thứ 3
là QT bí mật xử dụng hạ đạo đường biển để di quân chủ lực, quân lương kể cả voi
ra điểm tập kết là Tam Điệp rồi song song 2 mặt Tây Đông cùng tiến(Theo đường
sông Đáy lên Sơn Tây và theo trục QL 1A ngày nay). Ngay năm 1390 mà ta cũng thấy
đại quân trận thủy chiến của CBN cũng có voi trên đường dẫn quân về huống hồ ngày
nay Nguyễn Văn Bình(NH) có đến 1 ngàn lâu thuyền kéo ra Bắc năm 1786 khiến dân
Nghệ An một phen lên núi trầm trồ mà không chở được nhiều quân và voi trong trận
này hay sao? Chỉ khác là lần này, năm 1788 quân di chuyển âm thầm không ai thấy.
Gỉa thuyết chỉ vướng mắc là năm 1786 quân di chuyển thuận gió(tháng 6 với gió
TâyNam thổi mạnh) còn nay là mùa gió ĐôngBắc thì di chuyển ngược gió. Nhưng
không sao. Lịch sử cho thấy TS di chuyển ngược gió nhiều lần vào đầu mùa hay cuối
mùa gió. Đây là lần di chuyển ngược gió vào cuối mùa gió ĐôngBắc(vào tháng Chạp).
GĐTTC viết năm Bính Thân(1776)
tháng 2,
Nguyễn Lữ vào cướp lương Gia Định đi ngược gió vào đầu mùa gió TâyNam(tháng 2 động “dắn”
(dắn ngược với động dài)/tháng 3 Nồm rộ/tháng 4 Nam non/ tháng 5 Nam cồ).
Năm 1777
tháng 3
Nguyễn Văn Huệ vào chiếm phủ Gia Định đi ngược gió( tháng 3 Nồm rộ). Năm 1782 tháng 3 NN và NH dẫn 3 vạn quân vào lấy phủ Gia Định(tháng
3 Nồm rộ). Năm 1783
tháng 2,
Nguyễn Văn Lữ và NH vào chiếm Gia Định(tháng 2 động “dắn”, tức cuối mùa gió
ĐôngBắc và đầu mùa gió TâyNam và gió Nồm). Năm 1787 tháng 6, Nguyễn Văn Lữ bị Nguyễn Vương Ánh
đánh đuổi chạy về Qui Nhơn thuận gió. Nhưng thái úy Phạm Văn Hưng dùng 30 chiếc
thuyền chở binh lương từ Qui Nhơn vào cật lực giúp thái bảo Phạm Văn Tham bị
vây hãm phải lui về Qui Nhơn, bỏ lại Phạm Văn Tham chiến đấu 1 mình thì đi ngược
gió đó. Đi vào thì ngược gió(tháng 5 tháng 6 tháng 7 là chính mùa gió TâyNam).
HLNTC viết ngày 14-7 Bính Ngọ(1786) nhận được tin NH lấy được Thăng Long, NN tức
tốc ra Bắc rồi cùng NH tháng 8 dẫn đại binh về Nam(đi ngược gió TâyNam đó,
nhưng cuối mùa). Tóm lại ngược gió TS không đáng ngại. Nguyễn Hữu Chỉnh có biệt
danh là “con hải ưng chống giặc biển’’chắc phải khâm phục thủy quân của TS khi
ông vào Nam năm 1782 chứng kiến các cuộc di chuyển quân khoảng 600km vào ra Gia
Định-QuiNhơn “như cơm bữa” của TS. Trận MậuThân 1788 Tây Sơn có thể bí mật tập
kết quân mạnh tới TamĐiệp, ém quân trước ở đây. Quân đi theo đường biển như đại
binh của CBN đánh Thăng Long năm 1390 đã di chuyển. Qua 10 ngày nghỉ ở Nghệ An
QT mới rầm rộ kéo khinh binh đi kiểu “Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra” làm
nô nức lòng người mà dân gian(như HLNTC mô tả) ai ai cũng biết là hình thức phô
trương. Phần chìm bí mật chẳng ai biết.
Chiến Thuật bí mật hợp đồng tác chiến nhịp
nhàng. Cái kỳ diệu trận đánh không phải
di chuyển thần tốc. Có nhiều tướng lãnh đã thực hiện được sự di chuyển như thế
trong lịch sử như đã dẫn chứng. Có cảm giác thần tốc là do trận diễn biến bí mật
và có sự hợp đồng tác chiến nhịp nhàng. Blog Lưu Quốc Bảo viết thần tốc là cốt
làm sao khéo léo điều động các cánh quân xuất hiện kịp thời vừa tăng sự cộng hưởng của sức mạnh, vừa khiến đối
phương tưởng như 1 phép lạ nên kinh hoàng tan vỡ.
HLNTC mô tả TS bày trận như
thế này: Trung quân có tư mã Sở và vua QT, nội hầu Lân làm tiên phong, Hám Hổ hầu
làm hậu quân. Tả quân là thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu. Đô đốc Tuyết coi
mặt Hải Dương còn đô đốc Lộc chặn đường về của quân Thanh ở Lạng Sơn Yên Thế. Hữu
quân là quân voi ngựa. Đô đốc Long xuyên qua huyện Chương Đức, đến làng Nhân Mục huyện
Thanh Trì để đánh ngang vào đồn Điền Châu(Cương Mục nói thái thú Điền Châu Sầm Nghi
Đống thắt cổ chết ở Loa Sơn tục gọi là gò Đống Đa). Đô đốc Bảo theo đường Sơn Minh
ra làng Đại Áng huyện Thanh Trì tiếp ứng cho cánh quân hữu(đô đốc Long).
Khi mô tả diễn biến trận
đánh sách đề cập chỉ có 3 trận là Hà Hồi, Ngọc Hồi và Khương Thượng(dàn quân
thì nói đô đốc Long có nhiệm vụ đánh vào đồn Điền Châu nhưng khi mô tả thì nói
đánh ở Khương Thượng). Nghĩa là làm kế hoạch ở 1 thời điểm còn đánh thì diễn biến
ở 1 thời điểm khác. HLNTC chủ yếu mô tả trận Hà Hồi-Ngọc Hồi của QT. Cánh hữu quân
di chuyển như thế nào sách này không mô tả rõ(Chương Đức, Sơn Minh là đâu?) chỉ
nói trung quân của vua QT tiến lên đuổi bắt hết quân do thám và nghĩa quân khiến
nửa đêm mồng 3 QT lặng lẽ đến vây kín đồn Hà Hồi mà quân Thanh không hề hay biết.
Đến khi bắt loa gọi quân TS dạ ran thì quân Thanh rụng rời nghe như có hàng vạn
binh vây đồn nên phải đầu hàng. QT không tấn công tiếp đồn Ngọc Hồi. Ngày mồng
4 quân ở Ngọc Hồi chạy về báo Tôn Sĩ Nghị “tướng trên trời xuống, quân dưới đất chui lên”
Quan quân đồn Hà Hồi bị TS đánh úp bắt hết. Ngọc Hồi không xa sớm chiều gì cũng
bị đánh. Sĩ Nghị hoảng hốt sai Thang Hùng Hiệp đến cứu và dặn chốc lát báo tin
ngay. Ý Sĩ Nghị chỉ có lo mặt đó(mặt Nam). Không ngờ canh tư đêm mồng 4 phía
Tây Bắc của thành súng nổ đùng đùng không ngớt. Sĩ Nghị cho người ra xem thì
nghe báo đồn Điền Châu bị vỡ. Sáng mồng 5 QT quyết chiến và hạ được đồn Ngọc Hồi.
Sĩ Nghị không kịp đóng yên không kịp mặc
giáp chuồn trước qua cầu phao. Quân các doanh hoảng hốt tan tác bỏ chạy. Trước
đó QT cho 1 toán quân lên bờ đê Yên Duyên ở phía Đông bây giờ mở cờ gióng trống.
Quân Thanh thấy thì hoảng hồn tìm lối tắt theo đường Vinh Kiều mà trốn. Chợt thấy
quân voi từ Đại Áng(đô đốc Bảo) tới. Quân Thanh hết hồn hết vía trốn xuống đầm
Mực làng Quỳnh Đô bị TS lùa voi giày đạp chết hàng vạn. Diễn biến cánh tả quân
sách HLNTC không mô tả chi tiết. HLNTC mô tả như vậy cho ta thấy một hợp đồng
tác chiến hết sức nhịp nhàng bí mật, tính toán như thần(kiểu Khổng Minh trong
Tam Quốc Chí của La Quán Trung). Ngày mồng 4 không đánh là để đánh lạc hướng nhử
địch chú ý mặt Nam để nửa đêm cánh quân ở phía Tây của đô đốc Long đánh bọc hậu
ở Khương Thượng. Sáng mồng 5 QT hạ đồn ngọc Hồi ở phía Nam. Đống Đa Khương Thượng
bị vỡ nên tàn quân phải chạy về Đông, đến sông Hồng thì gặp cờ xí, buộc phải theo
đường tắt trốn đi thì gặp quân voi phía Tây từ làng Đại Áng đổ tới. Mô tả hết sức
ngắn gọn nhưng logic nói lên được 1 trang sử hào hùng, cảnh diệt hàng vạn địch
quân trong “chốc lát”(HLNTC chỉ mô tả rõ cánh quân nhân vật chính QT ở phía Nam
còn cánh quân phía Tây và cánh quân chận hậu phía Đông và Bắc chỉ nói phớt qua
để làm nổi bậc nhân vật chính, khác với sách sử là mô tả hết các trận đánh của
các cánh quân). Độc giả thấy cảnh quân địch hoảng hốt giẫm đạp lên nhau mà chết
hay bị voi gày mà chết. Thật là bút pháp của tiểu thuyết HLNTC. HLNTC mô tả diễn
biến giống như Nguyễn Du mô tả cảnh bước đường cùng ập tới mà Thúy Kiều phải chịu:
“Tiếng gà xao
xác gáy mau/Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng…/Dặm rừng bước thấp bước cao
hãi hùng/…Một đoàn đổ trước đến sau/Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời.”
Thật là khiếp. Nhà văn mô tả tài tình tâm trạng Kiều giống như nhà tiểu thuyết
trong HLNTC mô tả tâm trạng quân Thanh thua trận. Nhà viết sử thì chuộng sự
trung thực hơn. Sách khác theo đó mô tả không kém phần tiểu thuyết hóa cốt để “tăng
tốc” hấp dẫn người đọc như thế. Có sách nói QT vào thành Thăng Long chiến bào
màu đỏ đã bị nhuộm đen vì khói thuốc súng! Dù có đẫm máu và sặc mùi thuốc súng nhưng
chỉ có mỗi 1 trận đánh thôi là trận Ngọc Hồi mà mô tả tuồng như QT xông từ trận
này qua trận khác. Độc giả bị hấp dẫn truyện QT của các tác giả hâm mộ QT như mê
truyện Tam Quốc Chí dưới bút pháp của La Quán Trung. Nhà Tây Sơn chưa kịp viết
sử vả lại nếu có thì sử của nhà TS cũng bị nhà Nguyễn “đốt” hết. Sách HLNTC dù
các tác giả có đồng thời sống với vua QT cũng không viết đúng hết vì là viết tiểu
thuyết thay vì viết sử cho nên còn nhiều
điều bí ẩn về QT và nhà TS. Riêng trận này không biết TS có dùng thuyền chở voi
để cánh trung quân và hữu quân cùng tiến phát từ Tam Điệp Ninh Bình cùng 1 lúc
hay không hay là cánh hữu quân dẫn nhiều voi ngựa di chuyển một mình theo thượng
đạo nói trên có nhiệm vụ vào trung châu đánh ngang qua đồn Điền Châu phía Tây
thành Thăng Long như bao đời trước. Một lần nữa hậu sinh không biết Chương Đức,
Sơn Minh là đâu? Đô đốc Long xuyên qua huyện Chương Đức đến làng Nhân Mục là
đâu? Đô đốc Bảo theo đường Sơn Minh ra làng Đại Áng là đâu? Từ đâu họ kéo tới
Chương Đức, Sơn Minh để đến làng Nhân Mục, Đại Áng? HLNTC mô tả quá ngắn việc
di quân của cánh hữu quân này. Cánh hữu quân(quyết định để cánh trung quân phía
Nam dứt điểm trận đánh) lại chìm trong vòng bí mật lịch sử. Chủ tướng đô đốc
Long cũng bí ẩn không kém. Tới nay các sử gia vẫn còn tranh cãi thân thế vị tướng
có nhiều công trong trận này. Có tác giả nói đô đốc Long không phải là Đặng Tiến
Đông như Phan Huy Lê xác nhận(nên lịch sử cánh quân phía Tây tưởng rõ ra lại trở
lại mịt mù). HLNTC mô tả quân voi ngựa của cánh hữu quân(đô đốc Long và Bảo)
làm ta liên tưởng tới các trận đánh trong lịch sử từ phía Tây đã nói trên kia.
Phía Bắc và Đông thành Thăng Long có sông Hồng bảo vệ. Tấn công thành thường xảy
ra từ mặt Tây chủ yếu (có tính quyết định) vì dựa thế núi hiểm trở. Lịch sử
hành quân xưa nay như thế. Trục đường Thượng Đạo-Hòa Lạc-Láng là sở trường của
tượng quân bao đời trước. Đường Láng là đường chạy theo sông Tô Lịch ở phía Tây
bảo vệ thành TL. Nước của nó chảy ngược dòng với nước của sông Hồng: phong thủy
của thành Đai La đấy. Người Trung Hoa không quen đánh bằng voi nên phải thua nặng
bỡi cánh hữu quân ắc phải lắm voi nhiều ngựa, lại đánh vào nửa đêm(trận năm
1781 quân Gia Định và Chu Văn Tiếp không dám đánh vì TS dàn trận nhiều voi ở
Diên Khánh Bình Khang). Cánh trung quân ở mặt Nam theo QL 1A của vua QT “hốt cốt”
địch quân là phải thôi. Mặt trận phía Tây quan trọng và có tính quyết định nhưng để trận của QT(Hà Hôì-Ngọc Hồi) được nổi bậc HLNTC mô tả trận kia lướt qua thôi. Rất tiếc! Cũng như chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút năm 1784 có lẽ trận này QT biết xử dụng địa lợi(phía Tây thành Thăng Long) để phát huy hết tính chất bí mật, bất ngờ và lợi thế của tượng quân đánh thành công trước trận Ngọc Hồi. Chắc phải có người thông thạo địa thế đất Bắc bày mưu kế mai phục quân mạnh nơi hiểm yếu kiểu như Lê Xuân Giác trong trận Rạch Gầm ở trong Nam. Đâu là sự thực. Phải còn nhiều nghiên cứu.
Mùa chuẩn bị
Đại Hội III
của Cựu Học
Sinh TH Nguyễn Huệ.
Nhìn Lại Lịch
Sử.
Ngày
20-6-2012.
CHSTHNH Huỳnh
Bá Củng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét