Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2017

Chu Văn Tiếp-Đường Thượng Đạo Phú Yên

Chu Văn Tiếp, tướng có công và có tư cách đạo đức của Nguyễn Ánh, xuất thân từ đất Phú Yên với chính sử ghi
rõ ràng nhưng hậu sinh ở Phú Yên không vinh danh ông là danh nhân của bản địa mà vinh danh Lương Văn Chánh(LVC), danh nhân thuộc Bình Định với chính sử ghi không rõ ràng và quá vắn tắt.
Tướng của Nguyễn Ánh như Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Lê Văn Duyệt được ghi công. Tại sao tướng Chu Văn Tiếp(CVT) địa phương này lại để quên lãng? Chỉ tại vì hậu sinh nơi đây, sau Cách Mạng Tháng Tám, sùng bái Tây Sơn, chê Gia Long cõng rắn cắn gà nhà mà quên công lao dòng họ Nguyễn từ đời chúa đến đời vua và bầy tôi của ông cũng mang vạ theo. Các thế hệ sau đó tiếp tục quên CVT mà lại ca tụng LVC một cách thái quá, thêu dệt, thêm hoa, thêm lá, tô vẽ một cách chủ quan như trong dịp kỷ niệm Phú Yên 400 Năm.
Chánh sử ghi chép về Chu Văn Tiếp.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết về ông rất vắn tắt: “Thắng quân chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn. Các tướng của chúa Nguyễn nổi lên đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có ông Chu Văn Tiếp, người ở Qui Nhơn, nhân lúc loạn lạc, tụ chúng giữ núi Trà Lang(Phú Yên). Đến khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân vào Gia Định, CVT đem binh ra giúp. Chúa Nguyễn bị hại. Nguyễn Vương lên thay. CVT ra giúp Nguyễn Vương và được phong chức Chưởng Cơ đem binh ra đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ núi Trà Lang. Nay được tin Gia Định thất thủ, CVT đem binh từ Phú Yên vào hợp với các đạo đánh lấy được thành Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc rước Nguyễn Vương về”.
Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên viết nói rõ hơn. “Ông còn có tên là Doãn Ngạnh. Tiên tổ ở Phù Mỹ sau đến huyện Đồng Xuân. Ông rất giỏi võ nghệ và có tài làm tướng, làm nghề buôn bán với Mọi(buôn bán ngựa-Wikipedia và trang mạng khác), nên quen với Nhạc, cũng làm nghề ấy. Năm Qúi Tị (1773) Tiếp cùng với anh là Chu Doãn Chữ, em là Doãn Chấn, Doãn Húc(VSXĐT gọi là Hạng), đến nguyên Hà Duy củ hợp được 1000 người Man , chiếm cứ núi Trà Lang. Khi quân Ngũ dinh đóng ở Phú Yên( Tháng 4-1774 đến 5-1776) cũng có nhiều người theo Tiếp. Trong số này có Lê Văn Quân làm cai đội. Tiếp gả em gái là Chu Thị Đậu cho. Nàng này cũng biết việc binh, hiệu là Chu Muội Nương.”
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên(ĐNTLTB), đoạn thực lục tháng 11-1776 viết nói “CVT người huyện Đồng Xuân, Phú Yên, dũng cảm, có tài lược, hợp quân được 1000 người, nghe giặc đã lập Đông Cung đã muốn đi theo. Sau thấy giặc tàn bạo, bèn quyết ý qui thuận. Tống Phước Hiệp báo lên. Chúa sai đóng ở thượng đạo làm thanh ứng cho quân ngũ dinh.”
Việt Sử Xứ Đàng Trong(VSXĐT) và Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử VN của Nguyễn Q.Thắng và Nguyễn Bá Thể nói thân thế ông tương tự như vậy và còn cho biết ông thông thạo tiếng Xiêm và tiếng Miên. VSXĐT viết thêm. “Vì lời tuyên bố của TS lúc mới khởi nghĩa là lập Hoàng Tôn Dương(Đông Cung) nên lôi kéo được 1 hào kiệt lục lâm là CVT về giúp. Khi bị ép giữa quân Trịnh và quân của Tống Phước Hiệp(Tháng 4 năm 1774 và tháng 2 năm 1775), Nhạc sai người mời CVT đem quân ra hợp để lập Đông Cung. Năm Ất Mùi(1775) CVT ra Quảng Nam cùng rước Đông Cung về Qui Nhơn. Về rồi thấy Nhạc không muốn lập Đông Cung bèn đem đồ đảng về Phú Yên.” 
CVT được chúa cho giữ Thượng Đạo.
Thượng Đạo là đâu? Trong chiến tranh TâySơn-Nguyễn Ánh thực lục mô tả chiến trường ở Phú Yên. Quân Gia Định tiến đánh thành Đồ Bàn bằng 3 cánh quân: Thượng đạo là đường hành quân qua vùng núi Sơn Hòa, xuống Đồng Xuân, đến La Hai rồi theo tuyến đường xe lửa ngày nay ra Qui Nhơn. Bộ binh theo trung đạo vượt đèo Cù Mông ra Qui Nhơn và thủy binh theo đường biển đánh vào cữa Thị nại. Tây Sơn đánh vào Gia Định 5 lần đều theo đường biển(trận năm 1776, 1777, 1782, 1783 và năm 1784). Năm 1785 Nguyễn Ánh lưu vong sang Xiêm tị nạn và năm 1786 Nguyễn Huệ đánh ra Bắc, không vào Nam nữa.
Thượng đạo mà chúa cho CVT trấn giữ là đâu và năn 1782 CVT vào cứu Gia Định đi đường nào. Để trả lời câu hỏi hãy đọc đoạn lịch sử sau đây.
Đoạn lịch sử.
Năm 1773, Tây Sơn(TS) khởi nghĩa. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên viết tháng 12-1773, tiết chế Tôn Thất Hương đem quân đến núi Bích Khê(Bình Định), bị Tập Đình và Lý Tài phục binh giết. TS chiếm Quảng Ngãi. TS cướp các phủ Bình Khang, Diên Khánh. Thế là từ Qui Nhơn trở về Nam cho tới Bình Thuận đều bị giặc chiếm cả(không nói rõ TS có chiếm Phú Yên hay là chưa và tới Bình Thuận hay chiếm cả Bình Thuận).
Năm 1774. Tống Phước Hiệp(TPH) thống lĩnh tướng sĩ 5 dinh(ngũ dinh) Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ thu được 3 phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, đóng quân ở Hòn Khói.
Năm 1775, tháng 5, TPH lấy được Phú Yên. Quân bộ đóng ở Xuân Đài. Quân thủy đóng ở Lấm Úc(Vũng Lấm). Sai tri huyện Đồng Xuân là Bạch Doãn Triều cùng cai đội Thực ra lịnh cho giặc rằng: “Trả Đông Cung cho ta, nếu không thì đại binh đến, không còn đường chạy.” Nhạc giả cách nhận lời. Nhạc sai quan hầu Đông Cung là Tôn Thất Tĩnh(TTT) đi Quảng Ngãi phủ dụ nhân dân, sai Tôn Thất Chí(TTC) đi Phú Yên lấy ý tôn lập Đông Cung. Vài tháng TTC nghe TTT bị giết, bèn trốn vào Gia Định. Tháng 7, Nhạc sai người đến xin hàng. TPH tin lời, rồi Nguyễn Huệ đánh úp Phú Yên, lưu Lý Tài trấn giữ(như vậy khởi đầu Phú Yên chưa bị TS đánh chiếm. Phú Yên bị bỏ ngỏ, vô chủ chăng?). TPH lui giữ Hòn Khói. Tống Phước Hòa giữ Ô Cam.
CVT họp quân ở Trà Lang hơn 1.000 người, nghe TS lập Đông Cung nên muốn đi theo, sau muốn qui thuận. TPH báo lên. Chúa sai giữ thượng đạo làm danh ứng cho quân ngũ dinh. Lý Tài đem đất Phú Yên đầu hàng. Tôn Thất Chí dụ được tiền khu của TS trong trận TS đánh úp Phú Yên đem 50 đồ đảng về hàng. Vì tên tiền khu của TS giết hại nhiều người nên TPH cho giết đi. Sai tham tán Trần Văn Thức giữ đất Phú Yên.
Năm 1776. Tháng 2 Nhạc bắc biên tên hết đinh tráng 3 huyện thuộc phủ Qui Nhơn làm binh, sai Nguyễn Lữ làm tiết chế đem thủy binh vào cướp Gia Định. Tháng 3 Nhạc xưng vương. Tháng 5 chúa triệu TPH về, lưu Trần Văn Thức, CVT giữ Phú Yên, Bình Thuận. TPH chưa đến thì Đỗ Thành Nhân(ĐTN) họp binh ở Ba Giồng 3.000 người đánh Nguyễn Lữ(NL) chạy về Qui Nhơn. NL cướp hơn 200 thuyền thóc gạo. TPH lưu Tống Phước Hòa giữ Trấn Biên, đem Lý Tài(LT) bái yết chúa. ĐTN chê LT là đồ chó lợn, không phục.Tháng 6 TPH chết. Ly Tài chiếm núi Chiêu Thái(Châu Thới) chống lại ĐTN. Tháng 7 Đông Cung(ĐC) trốn về Gia Định. ĐC sai Đỗ Danh khoáng đi dụ Lý Tài. LT đem quân về Sai Côn. Quân của ĐTN bỏ chạy. Chúa lánh đi. Đông Cung mở cờ có 6 chữ “Đông Cung Phụng Mệnh Chiêu An.” Quân của LT theo về ĐC. Chúa nhường ngôi cho ĐC. ĐC xưng là Tân Chính Vương(TCV), tôn chúa làm Thái Thượng Vương(TTV). Thăng Tôn Thất Chí làm Thiếu Phó. Tôn Thất Xuân làm Chưởng Cơ, Lý Tài làm Bảo Gía. Nguyễn Ánh không phục LT, xin chúa đi Tam Phụ chiêu dụ quân Đông Sơn của ĐTN.
Năm 1777. Tháng 3 Nguyễn Huệ vào Gia Định. TCV sai Lý Tài ra cự chiến, chém được tiền sát Tuyên. Địch hơi lùi. Trương Phúc Thận đem viện binh tới. Tưởng là quân Đông Sơn tới nên quân của Lý Tài bỏ chạy và tan vỡ. TS tiến đánh. Chúa chạy đến Đăng Giang. Nguyễn Ánh đem quân Đông Sơn đến cứu. Chúa và Tân Chính Vương chia địa phận với nhau để cùng đánh giặc. Phía sau Tranh Giang(Ba Giồng) TCV đảm trách. Phía trước Tài Phụ(Ba Giồng) chúa đảm đương(ĐNTL-CB). Chúa sai Đỗ Thành Nhân và Nguyễn Quân(Lê Văn Quân) lẻn đi Bình Thuận gọi CVT và Trần Văn Thức(TVT) vào cứu. TVT từ PY đem quân vào Gia Định, đến Bình Thuận, giao chiến với TS vừa trở ra đánh Miền Trung. Thức bị giết(VSXĐT). Tháng 8 TS thêm quân. Tân Chính Vương bàn kế chạy về Bình Thuận họp quân với CVT nhưng không xong. Các tướng tản mát. Tống Phước Hòa tự tử. Tân Chính Vương bị hại. Chúa chạy sang Long Xuyên(Cà Mau). TS phạm Long Xuyên. Chúa cũng bị hại. Nguyễn Ánh sống sót.
Năm 1778. Tháng Giêng Nguyễn Ánh được tôn làm vua. Tháng 2 tổng đốc Chu của TS đánh phá các làng ven sông Trấn Biên.  Hộ giá Phan Ngạn đến đạo Hòa Nghĩa. Tháng 3 vua sai Đỗ Thành Nhân giữ Sài Côn. Phan Ngạn chạy về Qui Nhơn. Lê Văn Quân(LVQ) chiếm Bình Thuận. Vua triệu LVQ về, sai Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi giữ đất ấy, họp binh với CVT. Năm 1777 TS lấn chiếm Bình Thuận, nay lấy lại được.
Năm 1781. Đỗ Thành Nhân bị giết. Thống nhung Nguyễn Văn Hoằng và lễ bộ Nguyễn Nghi ốm chết. Sai Tôn Thất Dụ(TTD) làm tiết chế đến giữ Bình Thuận, gia chức CVT làm khâm sai đô đốc chưởng cơ quận công trông coi công việc tướng sĩ binh dân ở Phú Yên. Tháng 5 điểm duyệt binh không dưới 3 vạn. Thuyền đi biển 80 chiếc. Thuyền chiến lớn 3 chiếc. Tàu Tây 2 chiếc. Bàn cử đại binh đánh TS. Sai TTD đem bộ binh ở Bình Thuân, Tống Phước Thiện, Nguyễn Hữu Thụy và Dương Công Trừng đem thủy binh ở Gia Định đi đánh TS. Bọn Dụ đến Nha Trang và Hòn Khói, cùng với CVT họp quân, đắp lũy đối diện giặc. Thủy binh TS ít nên không dám ra. TS đem bộ binh bày trận với nhiều voi chiến. Thấy thế quân ta rút. CVT lui về Trà Lang. Quân Đông Sơn có biến nên quân Gia Định không ra nữa.  Tháng 5 Nhuận, Võ Nhàn(anh của Võ Tánh), Đỗ Bảng giữ Ba Giồng làm phản, Nguyễn vương Ánh dẹp được.
Năm 1782. Tháng 3, Nhạc Huệ vào cướp Gia Định. Nhạc nghe tin ĐTN chết mừng nói: “Thành Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ sợ nữa.”.  Tháng 4, Tôn Thất Dụ và quân đạo Hòa Nghĩa toàn là người Thanh(người Tàu) vào cứu viện, chém được Phan Ngạn ở cầu Tham Lương. Nguyễn Nhạc tàn sát người Thanh ở Gia Định. Tháng 5 Nhạc Huệ dẫn quân về QN, lưu hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập cùng hộ bộ tên là Bá lãnh 3000 quân giữ Gia Định. Sách không nói Nhạc, Huệ lần này có lấn chiếm Bình Thuận hay là không. Đất này hãy còn vô chủ? CVT thì ở thượng đạo, vùng núi Trà Lang(Sơn Hòa, Phú Yên ngày nay), sợ voi chiến của TS không dám ra trong trận hồi tháng 5 mới năm trước(1781).
Chuyện 3 tháng sau: Tháng 8, CVT vào cứu viện. Cờ để 4 chữ: “Lương Sơn Tá Quốc.”Hộ bộ Bá bảo Nhàn Trập: “Văn Tiếp võ nghệ tuyệt vời, nay đem trọng binh đến, thế ta chưa địch nổi, chi bằng tạm bỏ đất này, lui quân về QN, sang mùa Xuân hãy đánh lại cũng chưa muộn.”Nhàn Trập không nghe. Giặc vỡ, chạy về QN. CVT cho người ra Phú Quốc rước vua về. CVT làm Ngoại Tả Chưởng Dinh, Tôn Thất Dụ làm Ngoại Hữu Chưởng Dinh. Ba tháng sau, CVT vào Gia Định theo đường nào? Trước khi trả lời, duyệt xét số phận đất từ Đèo Cù Mông trở vô Nam, 
Số phận đất nam đèo Cù Mông. Các bài viết sau này không biết dựa vào đâu nói những năm đầu khởi nghĩa, TS làm chủ đất từ Phú Yên đến Bình Thuận. Tra trong chính sử và suy luận ta không tin như vậy. Tháng 12 năm 1773 Lý Tài và Tập Đình phục binh giết Tôn Thất Hương ở Bình Định, tiến chiếm Quảng Ngải rồi ra Quảng Nam. Cho tới tháng 7 năm 1775 Nguyễn Huệ mới đánh úp Phú Yên. Việt Sử Xứ Đàng Trong nói Nguyễn Huệ vào đánh Bình Thuận năm 1776 nhưng không thắng. Năm 1776. Tháng 2 Nhạc bắc biên tên hết đinh tráng 3 huyện thuộc phủ Qui Nhơn làm binh, sai Nguyễn Lữ làm tiết chế đem thủy binh vào cướp Gia Định, lấy được trên 200 thuyền lương. Mới có 2 năm, 1774 và 1775, mà TS thiếu binh, thiếu lương. Ba  huyện của phủ Qui Nhơn không đủ nuôi binh đội. TS phải vào Gia Định cướp lương. Chắc gì TS rải đủ nhân và tài lực để cai trị một vùng rộng lớn phía Nam Đèo Cù Mông? Năm 1775, tháng 5, TPH mới lấy được Phú Yên. Phú Yên bị để ngỏ hơn 1 năm rưỡi(trọn năm 1774 tới tháng 5-1775. Tháng 7-1775, Nguyễn Huệ mới đánh úp PY. Trước đó phục binh TS giết Tôn Thất Hương tháng 12-1773 ở Bình Định, rồi lo tiến ra Bắc đánh Quảng Ngãi, Quảng Nam). Phú Yên bị bỏ trống là họp lý vì ở đây có quân cát cứ của CVT ở Sơn Hòa và Thị Hỏa ở Thạch Thành mà TS muốn thu phục.
Năm 1777, nhân thủy binh của Nguyễn Huệ vào đánh Gia Định mà bộ binh TS mới lấn ra Bình Thuận. Trần Văn Thức từ PY vào giao chiến, bị giết. Bấy giờ Bình Thuận mới thuộc TS. Năm 1778. Nguyễn Ánh lên ngôi vua, thu phục đất đai, sai Lê Văn Quân chiếm lại Bình Thuận rồi triệu LVQ về, sai Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi giữ đất ấy, họp binh với CVT. Năm 1781 Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi ốm chết. Tôn Thất Dụ lên thay làm tiết chế cùng CVT trông coi binh dân PY. Rồi quân Gia Định tiến đánh TS. Tống Phước Thiện, Nguyễn Hữu Thụy và Dương Công Trừng đem thủy binh ở Gia Định đi đánh TS. Tôn Thất Dụ đem bộ binh đến Nha Trang và Hòn Khói, cùng với CVT họp quân, đắp lũy đối diện giặc. Thủy binh TS ít nên không dám ra. TS đem bộ binh bày trận với nhiều voi chiến. Thấy thế quân ta rút. CVT lui về Trà Lang. Quân Đông Sơn có biến nên quân Gia Định không ra nữa.  Năm 1782 CVT vào cứu viện Gia Định. Bây giờ câu trả lời là CVT kéo đại binh đi đường nào: Thượng đạo Phú Yên.
Thượng đạo Phú Yên. Rặng Đại Lãnh cao chớn chở, có núi Chư Mư(mẹ Bồng Con) cao 2051m, Chư YangSin(2442m),chư TupSa(1977m). Rặng núi chạy hướng ĐôngBắc-TâyNam, chia Nam Trường Sơn làm 2 hệ cao nguyên. Ở phía Bắc là cao nguyên ĐắcLăc-GiaLai bằng phẳng rộng lớn, cao trung bình 500m. Ở phía Nam là cao nguyên LangBiang hẹp nhưng cao tới 1400-2100m và chạy cùng hướng song song với rặng Đại Lãnh. Tiếp theo là cao nguyên rộng lớn ĐơnDương-DiLinh-Bảo Lộc cao 800-1400m. Từ lâu ở Phú Yên có con đường xuyên Nam Trường Sơn lên Thủy      Xá Hỏa Xá, xuyên qua các cao nguyên đó. Thượng Đạo là đây?
Lê Qúi Đôn(LQĐ) viết trong Phủ Biên Tạp Lục năm 1776, lúc ông làm hiệp trấn ở Phú Xuân. LQĐ thuật lại lời của cai đội luận bình hầu Văn Thế Nghị quê ở thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn. Ông ta kể cho LQĐ là ông ta từng quản suất Nội Phủ Sơn Trường vào núi lấy hương. Ông kể: “Từ nguồn An Lạc đến Hà Nghiêu, Đất Cày, đèo La Hai, giáp đất Phú Yên, đến sông Lôi, Nước Nóng, Thượng Nhà, rồi tới nguồn Hà Lôi là chỗ các sách người Man người Đê ở, cọng 3 ngày.Từ đây thuê người Man dẫn đường đến chỗ ở của 2 vua Thủy Xá Hỏa Xá của nước Nam Bàn mất 14 ngày.” Ông kể tiếp: nước ấy có chừng hơn 50 thôn. Trong nước có núi Bà Nam rất cao lớn. Thủy Vương ở phía Đông núi. Hỏa Vương ở phía Tây Núi đều có địa phận riêng.
Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên viết về Truyện Hỏa Xá-Thủy Xá. Tướng quân trấn Tây Thành Trương Minh Giảng tâu nói phủ Sơn Tĩnh báo có man trưởng nước Thủy Xá đem 2 người và 2 thớt voi đến nộp man phủ tiếp gần hạt huyện Sơn Bốc, trấn Tây Thành và sai người đến nói với viên huyện úy rằng tên Liệt muốn lại thăm. Vặn hỏi thì tên Liệt nói từ trước man trưởng ấy cùng phiên vương quen biết và cứ 3 năm một lần đến phiên vương tặng cho tài vật. Biên thần nói trót đã mượn cớ khước từ nói cho tên Liệt bảo họ đi rồi. Vua(Minh Mạng) dụ rằng từ trước có biết Thủy Xá, Hỏa Xá. Duy chỉ có nước Hỏa Xá đến thông hiếu. Không biết tin tức gì đến nước Thủy Xá. Vua dụ tùy nghi vỗ về úy lạo họ. Trấn Tây Thành lại tâu lên nói về chuyện tên Kế và tên Mạt kể về chuyện nước Thủy Xá Hỏa Xá. Kế và Mạt kể năm trước vâng mệnh phiên vương đến 2 nước đó cầu quỉ thần phù hộ. Bọn họ đi từ phía Đông huyện Sơn Bốc 15 hôm thì đến Thủy Xá. Đất ấy Đông giáp Hỏa Xá, Tây giáp huyện Sơn Bốc, Nam giáp Man Đen Đen, Bắc giáp Man Lai. Chỗ ở của quốc trưởng 3 mặt giáp núi. Một mặt có cánh đồng rộng. Nước có chừng 100 nhà dân. Còn tên Liệt trên kia thì kể: Năm trước đi buôn từng đến Thủy Xá. Từ Sơn Bốc đến chỗ ở vua Thủy Xá mất 6 ngày. Nơi đây cách chổ ở vua Hỏa Xá mất 2 ngày.
Truyện Thủy Xá-Hỏa Xá viết nói tĩnh Phú Yên(thời Minh Mạng) dâng sớ nói cho bá hộ ở đồn Phúc Sơn(Sơn Hòa) và bọn Lê Văn Quyền mang lễ vật, mượn tiếng đi buôn lên Thủy Xá Hỏa Xá dò hỏi. Bọn Quyền trở về nói nước Thủy Xá mà trước kia gọi lầm là Hỏa Xá thì ở phía Đông. Hỏa Xá ở phía Tây. Bọn Quyền kể “đến Thủy Xá mướn người dẫn đường đến Hỏa Xá. Trên đường đi thấy nơi có 2 quả núi rất cao, có hình thể như nóc nhà, nước chia 2 bên chảy xuống. Núi này làm ranh giới Thủy Xá-Hỏa Xá. Từ đây đi chừng 2 ngày thì đến chỗ ở của quốc vương Hỏa Xá. Thấy nơi đây có 3 mặt là núi. Một mặt là cánh đồng rộng. Dân ước chừng 100 nhà.”
Nhờ những đoạn mô tả và những dữ liệu nói trên đây, ngày nay ta nhận ra 2 nước đó ở Đắc Lắc và Đắc Nông, chia nhau phân bố trên lưu vực 2 con sông Krong Ana phía ĐôngBắc rặng Đại Lãnh(địa phận Darklark) và lưu vực sông Krong Kno ở phía TâyNam(địa phận tĩnh Tuyên Đức và Quảng Đức-bảng đồ Jm Henthorn). Sông Krong Kno có 2 nhánh. Nhánh phía Đông phát nguyên ở chỗ 3 biên giới KhánhHòa-DarkLak-Tuyên Đức, chạy dọc theo chân rặng Đại Lãnh ở phía bên kia DarkLark, chảy về Tây(giữa cao nguyên Langbiang và rặng Đại Lãnh). Nhánh phía Tây phát nguyên ở phía Đông cao nguyên ở biên giới Campuchia-ViệtNam(cao nguyên M’Nong), đối diện với cao nguyên LangBiang nhưng thấp hơn. Hai nhánh họp lưu thành sông Krong Kno ở chỗ 3 biên giới Quảng Đức-ĐắcLắc-TuyênĐức. Krong Kno lại họp lưu với sông Krong Ana chỗ buôn Trap ở phía Nam TP Ban Mê Thuộc không xa lắm, thành sông Dark Krong chảy qua Ban Don rồi vào sông Srepok bên Campuchia, rồi vào sông Mekong(bản đồ Jm Henthorn). Sông Krong Kno và một đoạn sông Krong Ana làm ranh cho 2 tĩnh Đắc Nông(cũ là Quảng Đức) và Đắc Lắc.
Câu:“2 quả núi rất cao, có hình thể như nóc nhà, nước chia 2 bên chảy xuống. Núi này làm ranh giới Thủy Xá-Hỏa Xá” mà bọn Quyền mô tả ranh giới Thủy Xá-Hỏa Xá thời Minh Mạng cũng giống như mô tả núi Bà Nam mà luận bình hầu Văn Thế Nghị  đã mô tả năm 1776: “Núi Bà Nam rất cao lớn. Thủy Vương ở phía Đông núi. Hỏa Vương ở phía Tây Núi.” Đó là núi ChưYangsin và Chư TupSa trên bảng đồ ngày nay. Cao nguyên Dắc Lắc bằng phẳng rộng lớn, trên đó chỉ có núi Chư YangSin-TupSa cao nhất mà thôi. Đoạn mô tả “3 mặt là núi. Một mặt là cánh đồng rộng. Dân ước chừng 100 nhà”của các đoạn văn viết trên đây nói lên hình ảnh địa thế lưu vực sông Krong No ở trên cao nguyên TuyênĐức-Quảng Đức trông xuống “cánh đồng” Ban Don, thấy trên bản đồ quân sự(Jm Henthorn) ngày nay.
Bọn Quyền mô tả“nước chia 2 bên chảy xuống.”là nói đến sự phân thủy của rặng Đại Lãnh chia nước về ĐôngBắc vào sông Krong Ana và vào sông Krong No ở phía TâyNam. Thế thì vị trí Thủy Xá Hỏa Xá nhận định được trên bản đồ ngày nay và thượng đạo mà CVT xử dụng để vào Gia Định cứu viện cũng được phát lộ.
Luận cứ để tin CVT xuôi Nam vào Gia Định theo Thượng Đạo vượt Trường Sơn, xuyên qua Rặng Đại Lãnh ở chỗ biên giới Thủy Xá-Hỏa Xá.
Trước nhất lý luận rằng đường dọc duyên hải bị TS chặn ở Bình Khang(Hòn Khói) rồi. Đất Bình Thuận khi thì thuộc quân Gia Định, khi thì thuộc TS. Trước năm 1774, TS chưa đủ quân để chiếm đóng Bình Khang, Bình Thuận. Còn Phú Yên thì có quân cát cứ là Thị Hỏa và CVT mà TS muốn thu phục theo về. TS  hoặc nể họ, hoặc muốn thu phục họ mà bỏ ngỏ Phú Yên chăng? Năm 1774 Tống Phước Hiệp(TPH) làm chủ từ Bình Khang đến Bình Thuận. Tháng 5-1775 TPH đánh lấy Phú Yên. Tháng 7-1775 Nguyễn Huệ mới đánh úp Phú Yên rồi Lý tài đem đất ấy nộp cho quân Gia Định. Năm 1776 Nguyễn Huệ vào đánh Bình Thuận không thắng rồi TS vét hết đinh tráng 3 huyện phủ Qui Nhơn, sai Nguyễn Lữ vào Gia Định cướp trên 200 thuyền lương. Năm 1777 Nguyễn Huệ vào giết được chúa và Tân Chính Vương. Trần Văn Thức từ PY vào cứu viện bị bộ bịnh TS lấn ra Bình Thuận(BT) giết chết. BT thuộc TS. Năm 1778 nguyễn Ánh lên ngôi vua cho Lê Văn Quân chiếm lại BT rồi sai Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi giữ đất ấy. Năm 1781, Hoằng và Nghi ốm chết. Tôn Thất Dụ(TTD) lên thay tiến ra Hòn Khói cùng CVT bày trận đánh TS.  TS có nhiều voi chiến. TTD lui binh. CVT lui giữ Trà Lang. Năm 1782 CVT không thể xử dụng đường duyên hải xuôi Nam được vì TS đóng chốt ở Bình Khang(Hòn Khói).
Đây là điểm chiến lược TS không thể bỏ trống. Cứ nhìn vào trận chiến 9 năm Giặc Gió Mùa(1793-1802) giữa TS-Nguyễn Ánh, ta thấy TS cố nhổ cho được thành Diên Khánh để tiến vào Nam diệt quân Gia Định và Nguyến Ánh(NÁ) cố giữ chốt chặn này làm bàn đạp để tiến hạ thành Đồ Bàn.  Phú Yên là vùng đệm và Rặng Đại Lãnh với 3 đèo là bức tường thành ngăn bước tiến quân. Năm 1793 NÁ tiến chiếm đất phía Nam của TS cho tới tận đất Phú Yên. Chiếm đến đâu thì đặt công đường để cai trị đến đó. Lúc thu binh về Gia Định chờ mùa gió thuận năm sau, NÁ sủa sang bảo Hoa Bông ở Diên Khánh thành căn cứ phòng thủ là thành Diên Khánh cho tướng cừ khôi là Võ Tánh trấn thủ. Năm 1794 Tổng quản Trần Quang Diệu và thái úy Nguyễn Văn Hưng phải đem tới 40.000 quân lấy đất Phú Yên rồi tiến vây Võ Tánh, cố hạ cho được thành. Quân Gia Định tiến ra, bày trận giữ 3 đèo ở Rặng Đại Lãnh để chận đường về của TS. Năm 1795 Phú Xuân có biến. Trần Quang Diệu chôn hết khí tài ở Bình Khang rồi theo thượng đạo lui binh. Trích đoạn sử trên đây để nói lên chốt chặn Bình Khang quan trọng như thế nào. CVT không thể vượt qua chốt chặn mà phải theo thượng đạo vào Nam thôi.
Luận chứng thứ 2 là CVT là tướng núi, từng buôn bán với Mọi, cùng nghề với Nguyễn Nhạc. CVT phải thạo đường trường sơn. Như trên ta thấy từ năm 1776, luận bình hầu Văn Thế Nghị đã là người biết đường xuyên Rặng Đại Lãnh lên Thủy Xá Hỏa Xá rồi. Năm 1783, CVT thua trận hỏa công ở Bến Nghé vì gặp phải ngày đạp triều, tức ngày con nước xuống chưa hết thì con nước thứ 2 dâng lên. Bè lửa của CVT không xuôi dòng trôi xuống đốt cháy thuyền TS mà nổi lềnh bềnh(giặp giờ nước ươn, triều không lên cũng không xuống). Tiếp theo thình lình cơn gió ĐôngBắc quật lại đốt cháy quân mình. Thừa thế quân TS hỗn chiến. Quân CVT vỡ toan. CVT phải do đường núi chạy lên Lao Quốc sang Tiêm La cầu viện (Gia Định Thành Thông Chí-Đoạn viết về Trấn Hà Tiên). CVT biết tiếng Xiêm và tiếng Miên như trên đây đề cập. Thời Gia Định Thành Thông Chí, sĩ phu Gia Định cho Lao Quốc là vùng cực Nam dãy Trường Sơn(Tây Bắc trấn Biên, đầu nguồn sông Bé và sông Saigòn). Rõ ràng CVT không những thạo thượng đạo ở bắc Rặng Đại Lãnh(Phú Yên) mà còn thạo cao nguyên Miền Nam(Di Linh, Bảo Lộc, Sông Bé). Việc CVT xử dụng Thượng Đạo ở 2 bên Rặng Đại Lãnh để xuôi Nam có thể tin được.
Luận chứng thứ 3 là về địa hình. Đường núi vượt Rặng Đại Lãnh để vào Nam chỉ có 2 nơi là đèo Nhà Cắp(nay là đèo Khánh Dương: Phú Yên đi Ninh Hòa, cũ là Bình Khang) mà năm 1794 đại binh Trần Quang Diệu lui binh về Qui Nhơn đã đi qua. Tuyến đường đèo này bị chốt chặn lại ở nút Bình Khang(Hòn Khói). Dãy núi Tây Khánh Hòa và TâyBắc Ninh Thuận (chỗ núi Bidoup cao 2287m) thì cao chớn chở, hiểm trở thâm u, là xứ Trầm Hương không ai dám bén mảng tới. Cho tới năm 2002 có chủ trương mở tuyến đường qua đây và năm 2007 mới thông xe qua đèo Khánh Lê(chỗ 3 biên giới Khánh Hòa-Ninh Thuận-TuyênĐức, phía dưới 3 biên giới Đắc Lắc-Tuyên Đức-Khánh Hòa một chút).
Nơi thứ 2 là chỗ Núi Bà Nam(chư YangSin cao 2442m-Chư TupSa cao 1977m). Nơi đó bên Đắc Lắc có một nguồn của sông Krong Ana chạy lên. Nguồn chảy trong thung lũng dưới 800m(vùng sơn màu hồng ở bảng đồ Jm Henthorn). Nguồn đó  băng qua Rặng Đại Lãnh chỗ giữa ngọn Chư YangSin và ngọn Chư TuSa, rồi tiếp cận với sông Krong Kno ở phía bên kia rặng Đại Lãnh, chỗ đoạn sông Krong Kno còn chảy trong vùng cũng dưới 800m(màu hồng). Nơi tiếp cận là Ban Pe’Trang. Từ đó xuôi dòng Krong Kno, tiếp tục hướng ĐôngBắc-TâyNam, trong thung lũng dưới 800m để đến Hỏa Xá. Các thung lũng dưới 800m nói trên có thể dùng làm đường đi lại được. Đến Hỏa Xá xuôi Nam có thể theo 2 ngả. Ngả theo tuyến QL27 ngày nay. QL27 từ TP Ban Mê Thuộc theo tuyến QL21cũ chạy xuống Nam. Tới hồ Dak Lak ở Lạc Thiện, tách khỏi QL21 cũ, QL27 chạy thẳng xuống Nam gặp sông Krong Kno, chỗ 3 biên giới ĐắcLắc-ĐắcNông-TuyênĐức, vào địa phận tĩnh TuyênĐức, rồi ngược dòng nhánh phía tây sông Krong Kno tiếp tục xuống Nam, QL27 nối tuyến Liên Tĩnh Lộ 18 cũ(bảng đồ Jm Henthorn) đi về Liên Khương, Đức trọng nối với QL20 đi về Saigon. Viết đến đây ta mới hiểu được địa giới nước Hỏa Xá mà gọi lầm là Thủy Xa mô tả trên đây: “Đất ấy Đông giáp Hỏa Xá, Tây giáp huyện Sơn Bốc, Nam giáp Man Đen Đen, Bắc giáp Man Lai”.“Man Đen Đen”! Man Đen Đen có phải là người Late sổng ở Dalat-Đức Trong-Liên Khương? Man Lai có phải người Jarai? Dãy Đại Lãnh phân 2 nhóm chủng tộc người Thượng. Người ở phía Bắc Rặng Đại Lãnh gọi núi là “chư”, sông suối là Ee(Ea Ayun, Ea Pa, Ea Krongnang). Người Thượng ở phía Nam gọi sông suối là Da(Da Nhim, Da Dung).
Ngả thứ 2 là theo thung lũng sông Bé đi về Bến Cát Bình Dương. Sông Bé phát nguyên ở phía Đông và Nam cao nguyên ở biên giới Campuchia-Việt Nam kế cận nước Hỏa Xá.
Luận chứng thứ 4 là nhân sự. CVT là một danh tướng, được đối phương tặng danh hiệu anh hùng và nể sợ. Đoạn sử năm 1782 kê trên Thực Lục Chính Biên(TLCB) viết Nhạc nghe tin ĐTN chết mừng nói: “Thành Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ sợ nữa.”Đoạn viết về CVT vào cứu viện, TLCB viết Hộ bộ TS tên là Bá bảo Nhàn Trập: “Văn Tiếp võ nghệ tuyệt vời, nay đem trọng binh đến, thế ta chưa địch nổi, chi bằng tạm bỏ đất này, lui quân về Qui Nhơn, sang mùa Xuân hãy đánh lại cũng chưa muộn.” Nhàn Trập không nghe. TS vỡ trận chạy về QN. Hai trọng tướng là hộ bộ Bá của TS và hàng tướng Đông Sơn là Nhàn Trập với 3000 quân lưu lại mà còn sợ CVT.  TLCB, đoạn nói Võ Tánh theo về viết: “Võ Tánh là người Bình Dương, thuộc Phiên Trấn, trí dũng hơn người. Đầu họp đảng ở Gò Công, có hơn một vạn người, hễ quân giặc đi qua là úp  đánh giết ngay. Giặc thường răn nhau: “Gia Định có ba anh hùng, Võ Tánh là một.” TLCB giải thích “Tánh với CVT và Đỗ Thành Nhân, người ta gọi là 3 anh hùng.” “Gia Định”dùng trong câu trên đây có nghĩa là “quân Gia Định”, hay quân Ngũ Dinh mà CVT theo về từ năm 1775 và được chúa cho giữ thượng đạo. Ngoài tài làm tướng, như trên đây ta biết, CVT là người đi buôn Mọi, cùng nghề với Nguyễn Nhạc nên 2 bên quen biết nhau. CVT thạo đường Nam Trường Sơn là cái chắc và có khả năng dẫn đại binh vượt xuôi theo Nam dãy Trường Sơn để tới Gia Định. Mãi đến thời Tây sang mới có QL14 xuôi Nam Trường Sơn. ĐNLT-CB viết nói CVT củ họp được 1000 người man, chiếm cứ núi Trà Lang. Với đội quân người man cho ta tin CVT xuôi Nam qua đường thượng đạo, qua ngả nước ThủyXá Hỏa Xá.



Luận chứng thứ 5 là thời gian. Đoạn nói về Thủy Xá Hỏa Xa ta biết từ huyện Sơn Bốc trấn Tây Thành đến Thủy Xá Hỏa Xá đi mất 15 ngày. Luận bình hầu Văn Thế Nghị nói từ biên giới Bình Định-Phú Yên đến ThủyXá HỏaXá mất 17 ngày. Vị chi xuyên ngang Nam Trường Sơn mất một tháng. Đại binh của CVT xuôi Nam Trường Sơn mất 3 tháng(từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1782) thì tin được.
Một bậc hùng anh như trên mà hậu sinh người bản địa Phú Yên không vinh danh mà đi vinh danh nhân vật làm quan ở huyện Tuy Viễn, tĩnh Bình Định, ông Lương Văn Chánh(LVC). Huyện Tuy Viến lờ mờ không biết ranh giới tới đâu. Và thân thế  lẫn sử liệu về LVC cũng lờ mờ không kém. Một số người Phú Yên lại hứng chí, lặn lội tới Thanh Hóa tìm dòng tộc họ của ông trạng nguyên Lương Thế Vinh(LTV) để “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kía” mà cho LVC là hậu  duệ của trạng LTV cho được danh giá. Chính quyền lại lấy tên trạng nguyên LTV đặt tên cho một trường ở TP Tuy Hòa để cho oai và để người ngoài trông vào thấy mình thâm sử học. Trước đây khá lâu, vào thời Pháp Thuộc và VNCH, Khánh Hòa lấy tên Võ Tánh đặt tên cho một trường Trung Học đứng đầu tĩnh để vinh danh ông.
Nói cái “trung” thì Võ Tánh tuẫn tiết để giữ thành Bình Định và cố thủ giữ thành Diên Khánh. Nói cái “dũng”là Võ Tánh đối đầu với danh tướng TS là Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu. So như thế thì CVT chẳng kém Võ Tánh(VT). “Trung” thì CVT chê Nguyễn Nhạc không phò Đông Cung để theo về quân Ngũ Dinh cho chánh danh, chính nghĩa. Trung với chế độ cho tới chết. Thua trận hỏa công ở Bến Nghé, CVT băng rừng qua tận Xiêm tha thiết cầu vua Xiêm vì sự nghiệp phục quốc, gìn giữ ngôi vua, dòng dõi vương tộc, làm vua Xiêm động lòng(ĐNTLCB tháng 3-1784, đoạn CVT lạy khóc trước mặt 2 vua Xiêm và Nguyễn Vương). Chẳng lẽ vua tôi nhà Nguyễn rước Tây và rước Xiêm về phục quốc mà tước hết các giá trị khác của họ hay sao? Quân ngoại lai chưa thừa cơ hội chiếm đất kia mà! Có tác giả lấy làm tiếc là CVT chết nên không chế ngự được quân Xiêm và nói Nguyễn Huệ thắng trận Rạch Gầm là nhờ địa lợi. Quân Xiêm rơi vào cái bẩy đất hiểm Ba Giồng, sào huyệt của quân ĐôngSơn. Vào đó thì không có ngõ ra(Đồng Tháp Mười). Cái “dũng” thì CVT chẳng kém VT. Lúc VT cát cứ ở Gò Công, Giặc thường răn nhau: “Gia Định có ba anh hùng, Võ Tánh là một.”Giặc chẳng dám đụng tới. VT có tới hơn một vạn người. Trong khi CVT cát cứ ở Trà Lang, Phú Yên,  chỉ có hơn 1000 người mà trụ được 9 năm(1773-1782). TS ở sát một bên mà chẳng triệt hạ được CVT, mặc dù ông đã theo “dịch” từ lâu, từ năm 1775. Nói về chức tước thì ông là quan lớn của triều Nguyễn Vương Ánh đấy: Chưởng Cơ Quận Công. Chưởng Cơ là đại tướng(quân hàm có 3 bậc: Cai đội là cấp úy, Cai cơ là cấp tá, Chưởng cơ là cấp tướng). Tước có 3 bực: Hầu, Quận Công. và Quốc Công.
Viết vài dòng này, nhắc nhở hậu sinh nên đọc sử cho kỹ, đừng vì cảm tính của chính quyền đương thời mà nghiêng ngả vinh danh những nhân vật lịch sử theo cảm tính của chính quyền đương thời. Triều TS quá ngắn ngủi. Dân chưa thấy họ làm được gì ích nước lợi dân ngoài việc vua Quan Trung đại phá được quân Xiêm và quân Thanh. Thấy TS xuất thân từ  dân giã và đánh ngoại xâm như ta mà vinh danh triệt để, không một chút nghĩ lại, liệu có chủ quan hay không?
CVT tử trận ở sông Măng Thích tĩnh Vĩnh Long. Tĩnh Vĩnh Long có miếu thờ ông. Vua Gia long cải tán, đem hài cốt về chôn ở xã Hắc Lăng(nay thuộc xã Tam Phước, thị trấn Long Đất, tĩnh Bà Rịa Vũng Tàu). Tĩnh Phước Tuy trước đây lấy tên ông đặt tên cho một trường trung học để vinh danh ông, Trường Chu Văn Tiếp(TCVT).  TCVT xuất thân từ Trường Trung Học Bán Công CVT mở vào năm 1956(đồng thời với Trung Học Nguyễn Huệ Tuy Hòa). Vào năm 1957 Trung Học Công Lập CVT được thành lập. Mùa Xuân Đinh Dậu(2017), Ongtampy.


 


0 nhận xét:

Đăng nhận xét