Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Đường Vào Đại Học Thời VNCH






































ĐƯỜNG VÀO ĐẠI HỌC THỜI VNCH.
Faculte des Sciences
SAI GON

Dịp 30 tháng 4 nhận được bài viết Trở Lại Sai Gòn Tóc Bạc Phơ của thầy Nguyễn Đãm, một entry blog của thầy vào ngày 30-4-2012, lòng tôi bùi ngùi nhớ đến 1 mái trường xưa, Khoa Học Đại Học Đường SG(KHĐHĐ-SG) và nhớ đến một thời đã quá vãn. Thầy trò chúng tôi thuộc thế hệ học sinh sinh viên ở buổi bình minh và ở buổi đứng bóng của nền Đệ Nhất Cọng Hòa ở Miền Nam.
Đường vào đại học. Ngày 20-7-1954 hiệp định Geneve có hiệu lực, thế hệ học sinh trung học đầu tiên ở Phú Yên, thế hệ học sinh TH trường Lương Văn Chánh(LVC) kẻ thì tập kết để đi ra Bắc, kẻ ở lại. Thay thế vào là một trường trung học tạm thời được lập lên ở Phú Thứ xã Hòa Bình Tuy Hòa lấy tên là trường Nguyễn Huệ. Năm 1955 trường được dời về thị xã Tuy Hòa. Sự ra đời của trường trung học Nguyễn Huệ đồng thời với sự ra đời của nền Đệ Nhất Cọng Hòa Việt Nam(VNCH). Có 1 sự chuyển tiếp từ năm 1955  các ngành quân sự, hành chánh, giáo dục từ Quốc Gia Việt Nam trong liên hiệp Pháp sang VNCH. Tới khoảng năm 1960 thì hầu như các cơ cấu được hoàn chỉnh. Nền Đại Học của người Việt Nam(không còn lệ thuộc chương trình Pháp, người Pháp nữa) ở Miền Nam thành hình.
Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thành lập năm 1950 đến năm 1959 thì thành trường Võ Bị Quốc Gia VN. Vào trường này phải có bằng Tú Tài II, tức trường này thuộc hệ đại học. Thời Pháp là trường võ bị Saint Cyr. Năm 1943 Hoàng Xuân Hãn lên Đà Lạt dạy toán cho sinh viên vào trường này. TrungTâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang thành lập năm 1952 đến năm 1955 thì chuyển giao cho VNCH. Niên khóa 1962-1963 tôi học lớp đệ nhất ở Nha Trang thì thấy thứ 7 chủ nhật sinh viên sĩ quan Hải Quân đồng phục trắng ở Cầu Đá ra dạo chơi thành phố Nha trang. Lúc đó trường này cũng thuộc hệ đại học(có tú tài II mới được vào). Trường Không Quân cũng ra đời tương tự ở Nha Trang. Trường Quốc Gia Hành Chánh Đà Lạt thành lập năm 1952, chuyển về Sg năm 1955 ở gần dinh độc lập, rồi về đường Trần quốc Toản năm 1958. Nguyễn Văn Bông làm viện trưởng khóa 1963-1971. Thời bình minh của VNCH chuyển sang trưa rồi đứng bóng. Tốt nghiệp tú tài II thì chúng tôi vào các trường đó hay theo hệ đại học chính qui là viện Đại Học Sài Gòn, viện Đại Học Huế. Sau này thì có viện Đại Học Đà Lạt hay viện Đại Học Cần Thơ và các đại học tư của các tổ chức tôn giáo. Các tổ chức của người VN trở nên hoàn bị và nền cọng hòa được trưởng thành. Thế rồi năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời.
Trước đây phần lớn lớp “trên sàng” của thế hệ học sinh LVC ở Phú Yên tập kết ra Bắc. Ở Miền Nam một số rất ít đếm được trên đầu ngón tay tiếp tục lên bậc đại học như thầy Nguyễn Đãm. Niên khóa 1957-1958 thầy vào KHĐHĐ-SG(Faculte des Sciences). Năm 1963  thầy tốt nghiệp bằng cử nhân và trước đó, niên khóa 1961-1962 thầy đã về trường Nguyễn Huệ dạy chúng tôi rồi. Thầy thuộc thế hệ chuyển tiếp vào thời bình minh nói trên. Lớp đàn em chúng tôi thuộc thế hệ sinh viên chính qui của nền đại học sắp được trưởng thành. Trưởng thành chẳng bao lâu thì nền Đệ Nhất Cọng Hòa sụp đổ thay thế bằng nền đệ nhị cọng hòa đầy sóng gió ở Niềm Nam, đến lược nó cũng bị cáo chung vào 30-4-1975.
Như trên tôi đề cập nền giáo dục ở Miền Nam lần lần trưởng thành theo nền cọng hòa của nó. Chúng tôi ở vùng kháng chiến rất ngỡ ngàng khi tiếp xúc với chương trình học ở phía Quốc Gia. Rồi lần lần cũng theo kịp. Theo kịp chương trình của người Pháp như thầy Nguyễn Đãm là cả 1 sự cố gắng của học sinh vùng kháng chiến. Đến lượt thế hệ sinh viên chúng tôi thì dễ thở hơn.
Thoạt đầu tiên (mãi tới niên khóa 1959-1960) thì thi dít lôm(thời pháp bằng tiểu học gọi là Primaire, trung học đệ nhất cấp thì gọi là bằng diplome) mới mở ở Tuy Hòa. Đệ Nhất Cấp gồm 4 lớp Thất Lục Ngũ Tứ. Thời 9 năm kháng chiến cấp 2 của Việt Minh chỉ có 3 lớp: năm, sáu và 7. Học tới lớp 7 là oai lắm rồi, vào đời được rồi, lãnh đạo được rồi. Tiểu học thì rút còn có 4 lớp: 1,2,3,4 (ở phía Quốc gia thì vẫn giữ chế độ 5 lớp như thời Pháp Thuộc: lớp 5, 4, 3 nhì và lớp nhất). Niên khóa 1960-1961 ở Tuy Hòa mới mở cấp trung học Đệ Nhị Cấp(Tam, Nhị, Nhất). Thi lấy bằng tú tài I(Tú Tài bán) thì phải ra tận Qui Nhơn(1962) thi và bắt buộc có bằng này thì mới được vào học lớp đệ nhất và cũng phải vào tận Nha Trang mới có trường. Tôi đậu bằng tú tài II(Tú Tài Toàn) năm 1963 rồi vào đại học.
Tôi còn nhớ đời nó đưa đẩy chứ tôi chẳng hiểu đại học là gì cả, chẳng biết tổ chức các trường đại học ra sao, học thứ gì,  cứ leo đại lên xe đò theo bạn bè thế thôi. Khi đó đường xe lửa bị bế tắt. Đường xe hơi thì phải qua rừng Lá chẳng phải sói trơ sói tróc như ngày nay mà chằng chịt đại thụ cây cao bóng cả rậm rạp um tùm nên có nhiều bất trắc hiểm nguy vì có thể bị người của Mặt Trận Giải  Phóng chận bắt. Nhưng khách vẫn đến được Sai Gòn. Ngày xưa đường vào Gia Định đi qua mũi Kê Gà vào Mô Xoài rồi mới lên Biên Hòa.
Trên đường vào đại học cái hồ hởi phấn khởi từng chốc từng phút rộn rã nổi lên trong lòng tôi không phải vì rồi đây sẽ được học đại học. Đại học là cái chi chi rất là mơ hồ đối với tôi. Cái đập vào tâm khảm rất mạnh trong lòng tôi trên đường vào đại học là Đất Nước Phương Nam. Qua khỏi rặng Đại Lãnh, vào tới Nha Trang tôi đã thấy lòng dễ chịu rồi. Tôi từng nghĩ sao xứ này “văn minh” êm dịu khác với cái xứ eo nghèo cộc cằn bên kia cái đèo của tôi vậy? Ảnh hưởng của người Pháp còn vương vấn nơi đây từ các kiến trúc để lại(không bị tiêu thổ kháng chiến) lẫn đến các nếp sinh hoạt. Hình ảnh Phan Rang, Phan Thiết cũng hấp dẫn tôi kiểu như thế đó. Cuối cùng cái dãy Trường Sơn chạy sát biển làm xứ tôi eo nghèo từ từ cũng biến mất. Trước khi biến, nó hãy còn để lại một dãy đồi núi chấm phá đây đó như những điểm màu tim tím xa xa ở phía chân trời nhìn từ Phan Thiết. Đó là những cái đồi nhỏ nhoi chạy vắt vẻo từ Tây sang Đông, từ núi Ông sát chân dãy Trường Sơn tới núi Két(mũi Kê Gà) sát bờ biển. Dãy đồi núi này dùng làm ranh Bình Thuận-Long Khánh mà xa xưa hơn là biên giới Mô Xoài của chúa Nguyễn với phần còn lại của nước Chiêm Thành.
Vào tới rừng lá chúng tôi hầu như bị mất hút chẳng biết trời mây non nước gì cả. Lần lần cảnh vật trở nên quang đãng ra và chúng tôi có dịp phóng tầm con mắt mà nhìn, nhìn theo nhịp điệu lên giồng xuống dốc của chiếc ô tô. Có mấy lần ở trên điểm đỉnh cao tôi thấy trước mắt như 1 cái biển xanh trải rộng mênh mông không biết đâu là bến là bờ, không có núi non chi cả và nhấp nhô theo nhịp lên xuống đất giồng đất trũng. Dù giồng hay trũng đều lặt lìa 1 màu xanh cây cối, cỏ lúa tốt tươi. Rồi tôi bàng hoàng khi xe chạy băng băng qua cánh rừng cao su chạy ngút ngàn ở Long Khánh. Tiếng ve sầu kêu râm rang trong rừng rú u tịch ẩm ướt đất xốp và đỏ. Ẩn hiện đây đó là những khu nhà kiến trúc kiểu của người Tây và lai rai vài tốp người đi ủng xuyên qua rừng cao su đất đỏ dẻo nhẹo bê bết dính vào chân. Tất cả những thứ gì mà từ nhỏ tới giờ tôi chẳng thấy ở quê tôi. Kích thích này tới kích thích khác. Xe vượt cầu sông Đồng Nai rồi cầu sông Sài Gòn. Sông ở Miền Nam là loại sông già. Mặt nước mênh mông. Nước ở hạ lưu êm đềm chảy quanh co uốn khúc. Nước dâng lên rồi hạ xuống theo nhịp điệu con nước thủy triều. Nước cập sát vào bờ. Bờ gần như thẳng đứng. Chẳng nơi nào bờ sông lại bày ra bãi cát bao la để 1 dòng nước hẹp chảy ở giữa. Ghe thuyền khó cập vào bờ như sông nước ở Miền Trung. Vào tới Xa Lộ Biên Hòa thì tôi mới nhận ra Sài Gòn đúng là “hòn ngọc Viễn Đông” mà từ lâu tôi chỉ biết trên sách vở, chẳng hình dung được sông nước như thế này. Cứ thế một mạch xe chạy riết hết đường Phan Thanh Giảng thì vào bến xe Ngả Bảy. Hồi đó ở bên phải Ngả Bảy đất hãy còn là đất của ao hồ vũng nước đọng, chỉ có 1 lớp nhà sát bên đường thì ở trên cao thôi. Theo bạn hữu khăn gói theo “con hẻm” nhỏ băng qua dãy nhà mặt tiền để vào khu nhà trọ mà lớp sinh viên đàn anh đã lưu trú. Nói là hẻm nhưng thực là dãy cầu khỉ vắt vẻo dẫn vào khu nhà trọ là những nhà sàn cất trên vũng nước. Mới chập tối mà chúng tôi phải chui vô mùng để tránh đàn muổi vo ve như đang ở trong rừng U Minh vậy.  Sáng sớm khi mặt trời ló dạng dòm song, thì 1 cảm giác bàng hoàng bỡ ngỡ nhận ra mình mất phương hướng. Trên đường vào đại học tôi cứ ngỡ tôi đã đi từ Bắc vào Nam. Xa Lộ, đường Phan Thanh Giảng dẫn mình từ Bắc vô Nam. Bây giời mới hay mặt trời “mọc ngược ngạo!” Ở Miền Nam, cắc cớ mặt trời mọc ở Phương Bắc, ở phía Xa lộ! Bây giờ tôi rất khó chịu nói xa lộ ở phía Đông thay vì nói ở phía Bắc như mình cảm tưởng, nói trường Bách Khoa, trường Quốc Gia Hành Chánh ở phía Bắc thay vì nói ở phía Tây, và trường Đại Học Khoa Học và Sư Phạm lại nói ở phía Nam thay vì nói ở phía Đông. Thực tế nó ở phía Nam đấy! Thật ngược đời, ngược với ý thức phương hướng của tôi. Lật bản đồ ra xem thì thấy kể từ Phan thiết bờ biển VN chạy thay vì theo hướng Bắc Nam thì bây giờ lại theo hướng ĐôngBắc-TâyNam. Về SaiGon là “lần theo bóng trăng tà mà đi”, đi về phía Tây đấy!
Bọn sinh viên người Phú Yên cứ kẻ trước dẫn dắt người sau. Khu lưu trú thường ở khu chợ Vườn Chuối, Bàn Cờ đến Ngả Bảy và ở khu giáp ranh SaiGòn-Chợ Lớn phía Đông Nam trường Đại Học Khoa Học từ đường Nancy(Cọng Hòa, Nguyễn Văn Cừ) đến đường Trần Bình Trọng.
Đoạn đường mà “hôm nay em đi học” là từ Ngả Bảy đến trường ĐHKH-ĐHSP. Đoạn đường đầy ắp nhiều kỷ niệm trong tôi. Phía bên tay phải của nó hãy còn vẻ thâm u rừng rú của khu nhà công bỏ trống vắng vẻ(bên trái mới là khu dân cư). Tôi còn nhớ mãi hình ảnh bóng mát, lá vàng úa lúc nào cũng ẩm ướt vươn vãi trên vỉa hè rộng, hòa với tiếng ve kêu re re nghe quanh quất đâu đây và dài như bất tận suốt cả một mùa hè cọng với hình ảnh những đám mây báo hiệu cơn mưa giông sắp tới. Hình ảnh không thể nào nguôi trong tâm khảm như hình ảnh “lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc” thời thơ ấu xa xưa: “hôm nay tôi đi học”.
Khí hậu Sai Gòn rất ấn tượng đối với tôi. Trời đang quang, mây đang tạnh bỗng dưng mưa xối mưa xả rồi bừng sáng, đường sá khô queo, cây cỏ mơn mởn tốt tươi và ướt át, gió nhẹ hây hây mát mẻ. Không có cái mưa thối rễ úng cây gió rít, “chim thôi bay nhìn mưa gió hãi hùng” kiểu mưa mùa Đông ở Trung Kỳ. Mùa mưa ở đây lại rơi vào mùa Hè, mùa của nóng nực. Mưa nắng có 1 sự điều hòa. Tôi yêu khí hậu Miền Nam. Tôi nhớ lại và ghét cái khí hậu mùa Hè xứ Nam Ngãi Bình Phú thời trung học của tôi. Mùa hè là mùa Nam Nóng cát bụi bay mịt mù. Hình ảnh không phai trong tâm trí tôi khi ra Qui Nhơn dự các kỳ thi cử vào mùa Hè là cảnh các cô gái thẹn thùng kéo vạt áo dài trắng mong manh lên để che kín và để tránh cơn gió Nam phũ phàng làm tốc áo tung bay hay gió Nam thổi bó sát lớp vải áo quần mong manh vào người để lồ lộ những tòa thiên nhiên tội nghiệp. Gió Nam ở xứ tôi sau khi thổi qua Miên Lào và dãy Trường Sơn trở nên tàn bạo và thô kệch, chẳng ngượng, chẳng ngùng, chẳng phân biệt con trai con gái, chẳng tha đứa nào hết, thẳng cẳng lật áo lật quần con người ta ra! Cũng cái gió Tây Nam nhưng ở Nam Kỳ thì nó dịu dàng mát mẻ. Gió ở Nam Ngãi Bình Phú hành xử còn tệ hơn trong trường hợp người ta đang rủ rỉ bên nhau mà vô tình hất cả 1 “nắm” cát nóng buốt vào mặt hay hất cát vào ly nước mát mà người ta định bụng để tặng cho nhau. Người yêu chưa kịp để lên môi thưởng thức cái ngọt ngào mát lạnh cho nhau thì gió Nam phũ phàng chõ cái mỏ cát bụi nóng bức và dơ dáy liếm vào đó. Gió Nam đã từng gieo rắc tai họa cháy nhà cho xứ sở này. Giáo sĩ Borri khoảng năm 1621 nói người ta phải dỡ tốc mái nhà để trần trụi suốt mùa nắng gió trên tuyến đường dài mấy trăm mét xuyên qua nhà nguyện của ông để bảo đảm lửa khỏi cháy leo qua nhà nguyện vào mùa nắng gió. Còn thương nhân người Anh Chapman ghé cảng Thị Nại mô tả trận hỏa hoạn vào đêm họ dừng chân nghỉ ở ngoài thành Đồ Bàn để chờ ngày mai vào yết kiến vua Nguyễn Nhạc: Đêm này xảy ra 1 trận hỏa hoạn gần đó. Tiếng nứt vỡ của cột tre và tiếng hò la của dân chúng cố chữa cháy khiến giấc ngủ không được như ýNắng gió ở cái xứ Nước Mặn ngày xưa đã thật hãi hùng rồi. Ngày nay mùa mưa ở Sai Gòn không còn cái “phong thái” êm dịu đẹp đẽ tươi vui lịch sự của ngày xưa nữa. Nó lây cái mưa gió thô kệch phũ phàng ở xứ khác rồi. Mưa rả mưa rích, mưa suốt sáng suốt tối, mưa gió lê thê, trời đất xám xịt. Đêm đến cũng có mưa. Mưa ngập lút đường lút sá như cảnh mưa gió hãi hùng thường thấy ở Miền Trung.
Trường sở hồi đó. Tôi tin trường Đại Học Khoa Học-SG(Faculte des Sciences SG) và Đại Học Sư Phạm-SG nằm trong khuôn viên trường Petrus-Ký thời Pháp thuộc. Không ảnh trường Petrus-Ký thời Pháp thuộc cho thấy trường gồm có 7 tòa nhà(bâtiments) lớn, 4 ở phía trước, 3 ở phía sau nằm xen kẽ so le với nhau. Đàng trước có 3 cấu trúc vuông vức nhỏ và cũng có lầu. Ở góc Tây Nam của trường là 1 tháp nước. Các bâtiments giống dãy nhà ở phía Tây chợ Bến Thành. Đó là lối kiến trúc dãy nhà có 2 dãy lầu nhưng vách thì dày và kiên cố,  có sàn chắc chắn lát gạch bông, có cầu thang bài bản nhưng không có trụ beton cốt thép như kiến trúc phổ thông ngày nay. Bốn tòa nhà ở góc Đông Nam trường Petrus-Ký bây giờ cắt ra dùng làm trường Đại Học Khoa Học(ĐHKH-SG) và Đại Học Sư Phạm(ĐH-SP). Trường ĐHKH-SG được giới hạn giữa 2 bâtiments ở phía trước. Vào năm 1963 một kiến trúc nhỏ hình vuông ở phía trước trường Petrus-Ký cũ còn tồn tại ở chỗ phân chia địa phận trường ĐHKH-SG và trường Petrus-Ký mới. Kiến trúc đó dùng làm Nha Văn Hóa(nha chứ không phải nhà). Trong khuôn viên ĐHKH-SG, bâtiment bên Trái giành cho khoa Toán Lý. Bâtiment bên Phải lầu 1 dùng làm phòng Thực Vật, lầu 2 cho phòng Động Vật và tầng trệt làm giảng đường cho ĐH-SP. Văn phòng và phòng các khoa khác chỉ là những nhà cấp 4(tường gạch mái lợp fibrocement hay lợp ngói) nằm giữa 2 dãy lầu nói trên. Ở góc Đông Bắc giáp với trường Petrus-Ký là giảng đường 1. Giảng đường 2 thì to hơn gấp bội nằm ở đàng sau, trong khuôn viên ĐH-SP. Một góc nhỏ của giảng đường 2 dùng làm khoa Sinh Lý Động Vật-Thực Vật. Còn ĐH-SP thì giành bâtiment phía Bắc cho khoa Văn và bâtiment phía Nam cho Khoa Học(toán, lý, hóa và vạn vật, tức khoa học tự nhiên Sciences Naturelles bao gồm Động, Thực vật và Địa Chất).
Chương trình học. Ở Miền Nam hồi đó có 2 lần chọn lọc “nhân tài”, kiểu cá vượt Vũ Môn, kinh khủng. Thoạt tiên vòng loại ở chặng Tú Tài I/II. Ai có khả năng thì cứ đi thi Tú Tài Bán. Đậu Tú Tài Bán thì mới được học lớp Đệ Nhất, thi lấy Tú Tài II. Vì vậy lớp Đệ Nhất có sĩ số lưa thưa trong các trường trung học trong khi sĩ số lớp Đệ Nhị thì đông đảo vô cùng. Có Tú Tài Bán thì được vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Vòng loại này cung ứng nhân lực cho trường Thủ Đức chăng? Có Tú Tài II mới được ghi danh vào Đại Học. Năm nào thi cũng đậu thì được hoãn dịch(hoãn nhập ngũ) vì lý do học vấn(vô hình trung Đại Học là chỗ trốn lính!) Vòng loại thứ 1 này rất lớn. Người ta thường nghe câu than thân sĩ tử thời đó là: “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ/Em nên trở về làm “đ” để nuôi con/ hay đi lấy Mỹ để nuôi con.” Câu tự thán nói lên nỗi chán chường “vượt Vũ Môn” ở vòng loại này. Tuy đã được sàn lọc ở tuyến thứ nhất, nhưng đến tuyến thứ 2 bọn sinh viên tụi tui vẫn còn  phải  phấn đấu  rất nhiều để khỏi bị loại khỏi “vòng chiến để được học hành” Cuộc chiến đấu cũng không kém kinh khủng. Hàng năm ở viện Đại Học Sài Gòn, chỗ công trường Chiến Sĩ(sau là hồ con Rùa) có hàng chục ngàn tân cựu sinh viên chen lấn toát mồ hôi để ghi danh vào Đại Học(ghi tự do chứ không thi tuyển gì hết). Nhưng hàng năm danh sách sinh viên đậu năm dự bị chỉ trên vài trang giấy A4 ở mỗi ngành mà thôi. Ở ĐHKH-SG thì có 7 chứng chỉ dự bị đại học: MG(Mathematic General). Năm 1963 thêm vật lý nên gọi là MGP(Toán Lý); Toán Lý Hóa(MPC); SPCN(Lý Hóa Nhiên, tức Sciences Naturelles, nghĩa là Vạn Vật); BPC(Lý Hóa Sinh, tức biologie và lý hóa, đào tạo cho sinh viên vào trường Y). Đến năm 1963 thì BPC đổi thành APM(Annee Propedeutique Medecine) cho sinh viên theo học ngành bác sĩ và APD (Annee Propedeutique Dentiste) cho sinh viên theo học nha sĩ. Năm đó Ngô Đình Lệ Thủy, con bà Ngô Đình Nhu, theo học lớp APM đầu tiên này. Nói chung các năm dự bị đều thoát thai từ chữ “propedeutique” mà nghĩa tiếng Anh là pre-university instruction or class mà ra. Khỏi ải dự bị vào chuyên khoa thì dễ chịu hơn. Tỉ lệ đỗ cũng khá cao hơn cấp dự bị. Lấy đủ 3 chứng chỉ chuyên khoa (khoảng 3 năm) như qui định thì được cấp Cử Nhân Giáo Khoa nếu tự do chọn chứng chỉ chuyên khoa thì được cấp Cử Nhân Tự Do kém giá trị hơn nhưng cả 2 vẫn được bổ vào ngạch Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp như tốt nghiệp ĐH-SP. Chương trình ĐH-SP dạy song song với trường ĐHKH và Đại Học Văn Khoa cho nên sinh viên có thể lấy 2 bằng Cử Nhân và ĐH-SP cùng 1 lúc được.
Không khí đại học khác ở trung học chỉ ở năm dự bị mà thôi. Qua cái ải dự bị vào chuyên khoa thì sinh hoạt y như ở thời trung học. Cũng thầy trò gần gụi biết tên biết mặt trong 4 bước tường của lớp học với vài chục sinh viên. Tốt nghiệp thì thầy viết tay vài “móng” lên trên 1 trang giấy nhỏ. Ở bậc dự bị tân sinh viên mới thấy mình là quan trọng, mình là sinh viên khác với học trò. Sinh Viên học ở trong cái giảng đường to tổ chảng. Giảng viên cứ cầm micro miệng nói tay viết lên bảng, chẳng biết đám sinh viên đông đảo bên dưới là ai. Sinh viên không dùng tập học sinh cổ lỗ sĩ như đứa học trò. Sinh viên ngồi chiễm chệ trong cái ghế giành riêng, sau 1 cái bàn con gắn liền với ghế, trịnh trọng rút từ từ tập giấy A4  từng tờ từng tờ ghi ghi, chép chép nghiêm trang như “người trí thức”, chăm chú lắng nghe tiếng giảng viên phát ra từ những cái loa trong khi dàn quạt trần phát ra âm thanh kêu ro ro đều đặn. Cả giảng đường im phăng phắc. Tiếng vo ve của một con muỗi bay lạc qua đây cũng nghe được mồn một. Tác phong sinh viên oai thật.
Cái oai của sinh viên thời đó không những thấy không khí sinh hoạt ở đại giảng đường mà còn thấy không khí ở trong thư viện, ở trong phòng thí nghiệm nữa. Một nét khác lạ khác không khí ở bậc trung học mà sinh viên tự hào là nghe giảng và làm bài bằng tiếng Pháp. Thoạt tiên tôi choáng váng khi thấy các thông cáo dán ở trước cổng trường đa số bằng tiếng Pháp. Tôi hoảng sợ nhưng rồi cũng quen kéo lếch theo. Năm đó(1963) chuyển ngử ở bậc dự bị chưa hoàn tất. Gần một nửa môn học hãy còn giảng bằng Pháp Văn. Công văn thông cáo ghi bằng tiếng Pháp mà tôi thấy là cái gì ghê gớm lắm. Một cái gì rất lạ đối với tôi. Ghi ghi, chép chép ở giảng đường bằng tiếng Tây chẳng qua chỉ để cho oai thôi chứ chẳng hiểu mô tê gì ráo. Nhờ trời có cua(cours) được in ra. Cứ “cày” cho thuộc thì cũng passable được(vượt qua, tạm được). Cours là bài tổng hợp ghi chép của 1 ban biên tập sinh viên. Sinh viên bận kiếm tiền(đi dạy thêm là chính) thì có thể đóng tiền lấy cours học vẫn được miến đi thực tập(Travaux Practiques gọi là TP) đầy đủ. Trình độ của họ vẫn y như sinh viên chính thống. Làm bài tỏ ra đủ trình độ thì được chấm đậu thôi. Chẳng ưu tiên cất nhắc hay móc ngoặc, hối lộ thầy cô chút nào. Bộ Danh Từ Khoa Học mà giáo sư Lê Văn Thới làm chủ tịch cho ra đời từ từ với công cuộc chuyển ngữ ở bậc Đại Học. Vài năm sau Miền Nam có được 1 nền Đại Học của người Việt Nam không phụ thuộc chương trình Pháp và người Pháp nữa.
Chuyện chính trị. Tới đây việc dựng nước của nền Đệ Nhất Cọng Hòa có được 1 thành tích nhưng về chính trị thì chưa có được thành tích khả quan, chưa thu phục được đại đa số đồng thuận để tạo nền móng vững bền lâu dài cho đất nước mới được thu hồi từ tay người Pháp cả 100 năm đô hộ: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/Một trăm năm đô hộ giặc Tây/Hai mươi năm nội chiến từng ngày/Gia tài của mẹ…” khánh Ly hát nhạc Trịnh. Nhiều biến động xảy ra. Phật giáo xuống đường rồi Thích Quảng Đức tự thiêu. Đảo chánh 1-11 “thành công”. Lực lượng phòng vệ phủ Tổng Thống ở thành Cọng Hòa đầu hàng lực lượng nổi dậy, một phen người ta hồ hởi phấn khởi. Thành  Cọng Hòa sau đó được dùng làm Đại học Văn Khoa, Đại Học Nông Lâm và Đại Học Dược Khoa. Những năm tháng tiếp theo đầy rẫy các biến động. Người Mỹ đưa quân vào trực tiếp tham chiến. Chiến tranh leo thang rồi nền Đệ Nhị Cọng Hòa ra đời cũng không làm sao hạ được cái sốt chinh chiến. Người ta chán ngán chiến tranh. Một nhạc sĩ và 1 ca sĩ thuộc thế hệ sinh viên của chúng tôi “ra đời” được nhiều người ưa thích. “Cặp bài trùng” Trịnh Công Sơn và Khánh Ly. Thế rồi 30-4-1975 chiến tranh đến hồi cũng kết thúc. Một thì hồ hởi phấn khởi ca hát “rừng núi giang tay…”. Một cất lên tiếng hát bi ai “sai gon ơi…”. Một thời tuổi trẻ của chúng tôi bị cuốn xoay trong vòng xoáy đó. Trong đó có nhiều người đồng sàng dị mộng. Sau 1975 mới “hay” ra thì sự đã rồi. Các mốc thời gian: Năm 1955 Nền Cộng Hòa ra đời, 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời, 1962 không quân VNCH ném bom dinh Độc Lập, 1963 dinh Gia Long và thành Cọng Hòa thất thủ, 1965 Mỹ trực tiếp tham chiến, 1975 Nền Cọng Hòa ở Miền Nam cáo chung.
Vài hàng phát họa, mong hậu sinh biết 1 số ngôn từ và tổ chức nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam tránh hiểu lầm như hồi mới “giải phóng.” Có chuyện cải vả cười ra nước mắt và có thể làm điêu đứng đời 1 con người. Chuyện anh cán bộ giáo dục Miền Bắc nói anh giáo viên lưu dung Miền Nam “cái thứ Giáo Học Bổ Túc và ĐH-SP Ban Thường Xuyên là đồ bỏ đi!” Anh Miền Nam sửng cồ nuốt hận ừng ực cố giải thích nhưng 2 anh cãi với nhau như vịt nghe sấm, như anh Campuchia cãi với anh Việt Nam. Người ta cố tạo ra cách nói khác đi hay khác biệt do tự nhiên xa cách để mà 2 miền Nam-Bắc ruột thịt khác biệt nhau nhưng vẫn nói là nghĩa Đồng Bào. Bằng Giáo Học Bổ Túc và ĐH-SP Ban Thường Xuyên là hệ đào tạo chính qui đó, khác bổ túc và thường xuyên “dỏm” đó ông ạ. Khoảng năm 1960 hệ đào tạo ở Miền Nam khá hoàn chỉnh. Toàn Miền Nam chỉ có 3 trường đào tạo chính qui giáo viên tiểu học. Đó là trường Sư Phạm Vĩnh Long, Trường Sư Phạm Sài Gòn(bên cạnh ĐH-SP mở ra đường An Dương Vương) và trường Sư Phạm Qui Nhơn. ĐH-SP Ban Thương Xuyên học 4 năm(bắt đầu từ năm 1963) như bậc Cử Nhân(1 năm dự bị và 3 năm chuyên khoa) thay vì 3 năm như trước đó. Một trường họp của tôi cũng tương tự. Tôi suýt bị bà viện trưởng viên Pasteur Nha Trang đuổi việc vào năm 1980 vì biết tôi vừa đi dạy vừa thi lấy bằng Cử Nhân Giáo Khoa Vạn Vật. Bà ta chê bằng của tôi là thứ dỏm, thứ tại chức!
Mùa Hè 49 năm sau(1963-2012)
Huỳnh Bá Củng.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét