ĐƯỜNG VÀO ĐẠI HỌC THỜI
VNCH.
Faculte des Sciences
SAI GON
Dịp 30 tháng 4 nhận được bài
viết Trở Lại Sai Gòn Tóc Bạc Phơ của thầy Nguyễn Đãm, một entry blog của thầy vào
ngày 30-4-2012, lòng tôi bùi ngùi nhớ đến 1 mái trường xưa, Khoa Học Đại Học Đường
SG(KHĐHĐ-SG) và nhớ đến một thời đã quá vãn. Thầy trò chúng tôi thuộc thế hệ học
sinh sinh viên ở buổi bình minh và ở buổi đứng bóng của nền Đệ Nhất Cọng Hòa ở
Miền Nam.
Đường vào đại học. Ngày 20-7-1954 hiệp định Geneve có hiệu lực, thế hệ học
sinh trung học đầu tiên ở Phú Yên, thế hệ học sinh TH trường Lương Văn Chánh(LVC)
kẻ thì tập kết để đi ra Bắc, kẻ ở lại. Thay thế vào là một trường trung học tạm
thời được lập lên ở Phú Thứ xã Hòa Bình Tuy Hòa lấy tên là trường Nguyễn Huệ.
Năm 1955 trường được dời về thị xã Tuy Hòa. Sự ra đời của trường trung học Nguyễn
Huệ đồng thời với sự ra đời của nền Đệ Nhất Cọng Hòa Việt Nam(VNCH). Có 1 sự
chuyển tiếp từ năm 1955 các ngành quân sự,
hành chánh, giáo dục từ Quốc Gia Việt Nam trong liên hiệp Pháp sang VNCH. Tới
khoảng năm 1960 thì hầu như các cơ cấu được hoàn chỉnh. Nền Đại Học của người
Việt Nam(không còn lệ thuộc chương trình Pháp, người Pháp nữa) ở Miền Nam thành
hình.
Trường Võ
Bị Liên Quân Đà Lạt thành lập năm 1950 đến năm 1959 thì thành trường Võ Bị Quốc
Gia VN. Vào trường này phải có bằng Tú Tài II, tức trường này thuộc hệ đại học.
Thời Pháp là trường võ bị Saint Cyr. Năm 1943 Hoàng Xuân Hãn lên Đà Lạt dạy toán cho sinh viên vào trường này. TrungTâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang thành lập năm 1952 đến năm 1955 thì
chuyển giao cho VNCH. Niên khóa 1962-1963 tôi học lớp đệ nhất ở Nha Trang thì
thấy thứ 7 chủ nhật sinh viên sĩ quan Hải Quân đồng phục trắng ở Cầu Đá ra dạo
chơi thành phố Nha trang. Lúc đó trường này cũng thuộc hệ đại học(có tú tài II
mới được vào). Trường Không Quân cũng ra đời tương tự ở Nha Trang. Trường Quốc
Gia Hành Chánh Đà Lạt thành lập năm 1952,
chuyển về Sg năm 1955 ở gần dinh độc lập, rồi về đường Trần quốc Toản năm 1958.
Nguyễn Văn Bông làm viện trưởng khóa 1963-1971. Thời bình minh của VNCH chuyển
sang trưa rồi đứng bóng. Tốt nghiệp tú tài II thì chúng tôi vào các trường đó
hay theo hệ đại học chính qui là viện Đại Học Sài Gòn, viện Đại Học Huế. Sau
này thì có viện Đại Học Đà Lạt hay viện Đại Học Cần Thơ và các đại học tư của
các tổ chức tôn giáo. Các tổ chức của người VN trở nên hoàn bị và nền cọng hòa
được trưởng thành. Thế rồi năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời.
Trước đây
phần lớn lớp “trên sàng” của thế hệ học sinh LVC ở Phú Yên tập kết ra Bắc. Ở Miền
Nam một số rất ít đếm được trên đầu ngón tay tiếp tục lên bậc đại học như thầy
Nguyễn Đãm. Niên khóa 1957-1958 thầy vào KHĐHĐ-SG(Faculte
des Sciences). Năm 1963 thầy tốt nghiệp
bằng cử nhân và trước đó, niên khóa 1961-1962 thầy đã về trường Nguyễn Huệ dạy
chúng tôi rồi. Thầy thuộc thế hệ chuyển tiếp vào thời bình minh nói trên. Lớp
đàn em chúng tôi thuộc thế hệ sinh viên chính qui của nền đại học sắp được trưởng
thành. Trưởng thành chẳng bao lâu thì nền Đệ Nhất Cọng Hòa sụp đổ thay thế bằng nền đệ nhị cọng hòa đầy sóng gió ở Niềm
Nam, đến lược nó cũng bị cáo chung vào 30-4-1975.
Như trên
tôi đề cập nền giáo dục ở Miền Nam lần lần trưởng thành theo nền cọng hòa của
nó. Chúng tôi ở vùng kháng chiến rất ngỡ ngàng khi tiếp xúc với chương trình học
ở phía Quốc Gia. Rồi lần lần cũng theo kịp. Theo kịp chương trình của người
Pháp như thầy Nguyễn Đãm là cả 1 sự cố gắng của học sinh vùng kháng chiến. Đến
lượt thế hệ sinh viên chúng tôi thì dễ thở hơn.
Thoạt đầu tiên
(mãi tới niên khóa 1959-1960) thì thi dít lôm(thời pháp bằng tiểu học gọi là
Primaire, trung học đệ nhất cấp thì gọi là bằng diplome) mới mở ở Tuy Hòa. Đệ
Nhất Cấp gồm 4 lớp Thất Lục Ngũ Tứ. Thời 9 năm kháng chiến cấp 2 của Việt Minh
chỉ có 3 lớp: năm, sáu và 7. Học tới lớp 7 là oai lắm rồi, vào đời được rồi,
lãnh đạo được rồi. Tiểu học thì rút còn có 4 lớp: 1,2,3,4 (ở phía Quốc gia thì vẫn
giữ chế độ 5 lớp như thời Pháp Thuộc: lớp 5, 4, 3 nhì và lớp nhất). Niên khóa
1960-1961 ở Tuy Hòa mới mở cấp trung học Đệ Nhị Cấp(Tam, Nhị, Nhất). Thi lấy bằng
tú tài I(Tú Tài bán) thì phải ra tận Qui Nhơn(1962) thi và bắt buộc có bằng này
thì mới được vào học lớp đệ nhất và cũng phải vào tận Nha Trang mới có trường.
Tôi đậu bằng tú tài II(Tú Tài Toàn) năm 1963 rồi vào đại học.
Tôi còn nhớ
đời nó đưa đẩy chứ tôi chẳng hiểu đại học là gì cả, chẳng biết tổ chức các trường
đại học ra sao, học thứ gì, cứ leo đại
lên xe đò theo bạn bè thế thôi. Khi đó đường xe lửa bị bế tắt. Đường xe hơi thì
phải qua rừng Lá chẳng phải sói trơ sói tróc như ngày nay mà chằng chịt đại thụ
cây cao bóng cả rậm rạp um tùm nên có nhiều bất trắc hiểm nguy vì có thể bị người
của Mặt Trận Giải Phóng chận bắt. Nhưng
khách vẫn đến được Sai Gòn. Ngày xưa đường vào Gia Định đi qua mũi Kê Gà vào Mô
Xoài rồi mới lên Biên Hòa.
Trên đường
vào đại học cái hồ hởi phấn khởi từng chốc từng phút rộn rã nổi lên trong lòng tôi
không phải vì rồi đây sẽ được học đại học. Đại học là cái chi chi rất là mơ hồ
đối với tôi. Cái đập vào tâm khảm rất mạnh trong lòng tôi trên đường vào đại học
là Đất Nước Phương Nam. Qua khỏi rặng Đại Lãnh, vào tới Nha Trang tôi đã thấy lòng
dễ chịu rồi. Tôi từng nghĩ sao xứ này “văn minh” êm dịu khác với cái xứ eo
nghèo cộc cằn bên kia cái đèo của tôi vậy? Ảnh hưởng của người Pháp còn vương vấn
nơi đây từ các kiến trúc để lại(không bị tiêu thổ kháng chiến) lẫn đến các nếp
sinh hoạt. Hình ảnh Phan Rang, Phan Thiết cũng hấp dẫn tôi kiểu như thế đó. Cuối
cùng cái dãy Trường Sơn chạy sát biển làm xứ tôi eo nghèo từ từ cũng biến mất.
Trước khi biến, nó hãy còn để lại một dãy đồi núi chấm phá đây đó như những điểm
màu tim tím xa xa ở phía chân trời nhìn từ Phan Thiết. Đó là những cái đồi nhỏ
nhoi chạy vắt vẻo từ Tây sang Đông, từ núi Ông sát chân dãy Trường Sơn tới núi
Két(mũi Kê Gà) sát bờ biển. Dãy đồi núi này dùng làm ranh Bình Thuận-Long Khánh
mà xa xưa hơn là biên giới Mô Xoài của chúa Nguyễn với phần còn lại của nước
Chiêm Thành.
Vào tới rừng
lá chúng tôi hầu như bị mất hút chẳng biết trời mây non nước gì cả. Lần lần cảnh
vật trở nên quang đãng ra và chúng tôi có dịp phóng tầm con mắt mà nhìn, nhìn
theo nhịp điệu lên giồng xuống dốc của chiếc ô tô. Có mấy lần ở trên điểm đỉnh
cao tôi thấy trước mắt như 1 cái biển xanh trải rộng mênh mông không biết đâu
là bến là bờ, không có núi non chi cả và nhấp nhô theo nhịp lên xuống đất giồng
đất trũng. Dù giồng hay trũng đều lặt lìa 1 màu xanh cây cối, cỏ lúa tốt tươi. Rồi
tôi bàng hoàng khi xe chạy băng băng qua cánh rừng cao su chạy ngút ngàn ở Long
Khánh. Tiếng ve sầu kêu râm rang trong rừng rú u tịch ẩm ướt đất xốp và đỏ. Ẩn
hiện đây đó là những khu nhà kiến trúc kiểu của người Tây và lai rai vài tốp
người đi ủng xuyên qua rừng cao su đất đỏ dẻo nhẹo bê bết dính vào chân. Tất cả
những thứ gì mà từ nhỏ tới giờ tôi chẳng thấy ở quê tôi. Kích thích này tới
kích thích khác. Xe vượt cầu sông Đồng Nai rồi cầu sông Sài Gòn. Sông ở Miền
Nam là loại sông già. Mặt nước mênh mông. Nước ở hạ lưu êm đềm chảy quanh co uốn
khúc. Nước dâng lên rồi hạ xuống theo nhịp điệu con nước thủy triều. Nước cập
sát vào bờ. Bờ gần như thẳng đứng. Chẳng nơi nào bờ sông lại bày ra bãi cát bao
la để 1 dòng nước hẹp chảy ở giữa. Ghe thuyền khó cập vào bờ như sông nước ở Miền
Trung. Vào tới Xa Lộ Biên Hòa thì tôi mới nhận ra Sài Gòn đúng là “hòn ngọc Viễn
Đông” mà từ lâu tôi chỉ biết trên sách vở, chẳng hình dung được sông nước như
thế này. Cứ thế một mạch xe chạy riết hết đường Phan Thanh Giảng thì vào bến xe
Ngả Bảy. Hồi đó ở bên phải Ngả Bảy đất hãy còn là đất của ao hồ vũng nước đọng,
chỉ có 1 lớp nhà sát bên đường thì ở trên cao thôi. Theo bạn hữu khăn gói theo
“con hẻm” nhỏ băng qua dãy nhà mặt tiền để vào khu nhà trọ mà lớp sinh viên đàn
anh đã lưu trú. Nói là hẻm nhưng thực là dãy cầu khỉ vắt vẻo dẫn vào khu nhà trọ
là những nhà sàn cất trên vũng nước. Mới chập tối mà chúng tôi phải chui vô
mùng để tránh đàn muổi vo ve như đang ở trong rừng U Minh vậy. Sáng sớm khi mặt trời ló dạng dòm song, thì 1
cảm giác bàng hoàng bỡ ngỡ nhận ra mình mất phương hướng. Trên đường vào đại học
tôi cứ ngỡ tôi đã đi từ Bắc vào Nam. Xa Lộ, đường Phan Thanh Giảng dẫn mình từ
Bắc vô Nam. Bây giời mới hay mặt trời “mọc ngược ngạo!” Ở Miền Nam, cắc cớ mặt
trời mọc ở Phương Bắc, ở phía Xa lộ! Bây giờ tôi rất khó chịu nói xa lộ ở phía
Đông thay vì nói ở phía Bắc như mình cảm tưởng, nói trường Bách Khoa, trường Quốc
Gia Hành Chánh ở phía Bắc thay vì nói ở phía Tây, và trường Đại Học Khoa Học và
Sư Phạm lại nói ở phía Nam thay vì nói ở phía Đông. Thực tế nó ở phía Nam đấy! Thật ngược đời, ngược với ý thức phương hướng
của tôi. Lật bản đồ ra xem thì thấy kể từ Phan thiết bờ biển VN chạy thay vì
theo hướng Bắc Nam thì bây giờ lại theo hướng ĐôngBắc-TâyNam. Về SaiGon là “lần theo bóng
trăng tà mà đi”, đi về phía Tây đấy!
Bọn sinh
viên người Phú Yên cứ kẻ trước dẫn dắt người sau. Khu lưu trú thường ở khu chợ
Vườn Chuối, Bàn Cờ đến Ngả Bảy và ở khu giáp ranh SaiGòn-Chợ Lớn phía Đông Nam
trường Đại Học Khoa Học từ đường Nancy(Cọng Hòa, Nguyễn Văn Cừ) đến đường Trần
Bình Trọng.
Đoạn đường
mà “hôm nay em
đi học” là từ Ngả Bảy đến trường ĐHKH-ĐHSP. Đoạn đường đầy ắp nhiều
kỷ niệm trong tôi. Phía bên tay phải của nó hãy còn vẻ thâm u rừng rú của khu
nhà công bỏ trống vắng vẻ(bên trái mới là khu dân cư). Tôi còn nhớ mãi hình ảnh
bóng mát, lá vàng úa lúc nào cũng ẩm ướt vươn vãi trên vỉa hè rộng, hòa với tiếng
ve kêu re re nghe quanh quất đâu đây và dài như bất tận suốt cả một mùa hè cọng
với hình ảnh những đám mây báo hiệu cơn mưa giông sắp tới. Hình ảnh không thể
nào nguôi trong tâm khảm như hình ảnh “lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng
bạc” thời thơ ấu xa xưa: “hôm nay tôi đi học”.
Khí hậu
Sai Gòn rất ấn tượng đối với tôi. Trời đang quang, mây đang tạnh bỗng dưng mưa
xối mưa xả rồi bừng sáng, đường sá khô queo, cây cỏ mơn mởn tốt tươi và ướt át,
gió nhẹ hây hây mát mẻ. Không có cái mưa thối rễ úng cây gió rít, “chim thôi bay
nhìn mưa gió hãi hùng” kiểu mưa mùa Đông ở Trung Kỳ. Mùa mưa ở đây lại
rơi vào mùa Hè, mùa của nóng nực. Mưa nắng có 1 sự điều hòa. Tôi yêu khí hậu Miền
Nam. Tôi nhớ lại và ghét cái khí hậu mùa Hè xứ Nam Ngãi Bình Phú thời trung học
của tôi. Mùa hè là mùa Nam Nóng cát bụi bay mịt mù. Hình ảnh không phai trong
tâm trí tôi khi ra Qui Nhơn dự các kỳ thi cử vào mùa Hè là cảnh các cô gái thẹn
thùng kéo vạt áo dài trắng mong manh lên để che kín và để tránh cơn gió Nam phũ
phàng làm tốc áo tung bay hay gió Nam thổi bó sát lớp vải áo quần mong manh vào
người để lồ lộ những tòa thiên nhiên tội nghiệp. Gió Nam ở xứ tôi sau khi thổi
qua Miên Lào và dãy Trường Sơn trở nên tàn bạo và thô kệch, chẳng ngượng, chẳng
ngùng, chẳng phân biệt con trai con gái, chẳng tha đứa nào hết, thẳng cẳng lật
áo lật quần con người ta ra! Cũng cái gió Tây Nam nhưng ở Nam Kỳ thì nó dịu
dàng mát mẻ. Gió ở Nam Ngãi Bình Phú hành xử còn tệ hơn trong trường hợp người
ta đang rủ rỉ bên nhau mà vô tình hất cả 1 “nắm” cát nóng buốt vào mặt hay hất cát
vào ly nước mát mà người ta định bụng để tặng cho nhau. Người yêu chưa kịp để
lên môi thưởng thức cái ngọt ngào mát lạnh cho nhau thì gió Nam phũ phàng chõ cái
mỏ cát bụi nóng bức và dơ dáy liếm vào đó. Gió Nam đã từng gieo rắc tai họa
cháy nhà cho xứ sở này. Giáo sĩ Borri khoảng năm 1621 nói người ta phải dỡ tốc
mái nhà để trần trụi suốt mùa nắng gió trên tuyến đường dài mấy trăm mét xuyên
qua nhà nguyện của ông để bảo đảm lửa khỏi cháy leo qua nhà nguyện vào mùa nắng
gió. Còn thương nhân người Anh Chapman ghé cảng Thị Nại mô tả trận hỏa hoạn vào
đêm họ dừng chân nghỉ ở ngoài thành Đồ Bàn để chờ ngày mai vào yết kiến vua
Nguyễn Nhạc: “Đêm
này xảy ra 1 trận hỏa hoạn gần đó. Tiếng nứt vỡ của cột tre và tiếng hò la của
dân chúng cố chữa cháy khiến giấc ngủ không được như ý” Nắng gió ở cái
xứ Nước Mặn ngày xưa đã thật hãi hùng rồi. Ngày nay mùa mưa ở Sai Gòn không còn
cái “phong thái” êm dịu đẹp đẽ tươi vui lịch sự của ngày xưa nữa. Nó lây cái
mưa gió thô kệch phũ phàng ở xứ khác rồi. Mưa rả mưa rích, mưa suốt sáng suốt tối,
mưa gió lê thê, trời đất xám xịt. Đêm đến cũng có mưa. Mưa ngập lút đường lút sá
như cảnh mưa gió hãi hùng thường thấy ở Miền Trung.
Trường sở hồi đó. Tôi tin trường Đại Học Khoa Học-SG(Faculte des
Sciences SG) và Đại Học Sư Phạm-SG nằm trong khuôn viên trường Petrus-Ký thời
Pháp thuộc. Không ảnh trường Petrus-Ký thời Pháp thuộc cho thấy trường gồm có 7
tòa nhà(bâtiments) lớn, 4 ở phía trước, 3 ở phía sau nằm xen kẽ so le với nhau.
Đàng trước có 3 cấu trúc vuông vức nhỏ và cũng có lầu. Ở góc Tây Nam của trường
là 1 tháp nước. Các bâtiments giống dãy nhà ở phía Tây chợ Bến Thành. Đó là lối
kiến trúc dãy nhà có 2 dãy lầu nhưng vách thì dày và kiên cố, có sàn chắc chắn lát gạch bông, có cầu thang
bài bản nhưng không có trụ beton cốt thép như kiến trúc phổ thông ngày nay. Bốn
tòa nhà ở góc Đông Nam trường Petrus-Ký bây giờ cắt ra dùng làm trường Đại Học
Khoa Học(ĐHKH-SG) và Đại Học Sư Phạm(ĐH-SP). Trường ĐHKH-SG được giới hạn giữa
2 bâtiments ở phía trước. Vào năm 1963 một kiến trúc nhỏ hình vuông ở phía trước
trường Petrus-Ký cũ còn tồn tại ở chỗ phân chia địa phận trường ĐHKH-SG và trường
Petrus-Ký mới. Kiến trúc đó dùng làm Nha Văn Hóa(nha chứ không phải nhà). Trong
khuôn viên ĐHKH-SG, bâtiment bên Trái giành cho khoa Toán Lý. Bâtiment bên Phải
lầu 1 dùng làm phòng Thực Vật, lầu 2 cho phòng Động Vật và tầng trệt làm giảng
đường cho ĐH-SP. Văn phòng và phòng các khoa khác chỉ là những nhà cấp 4(tường
gạch mái lợp fibrocement hay lợp ngói) nằm giữa 2 dãy lầu nói trên. Ở góc Đông
Bắc giáp với trường Petrus-Ký là giảng đường 1. Giảng đường 2 thì to hơn gấp bội
nằm ở đàng sau, trong khuôn viên ĐH-SP. Một góc nhỏ của giảng đường 2 dùng làm
khoa Sinh Lý Động Vật-Thực Vật. Còn ĐH-SP thì giành bâtiment phía Bắc cho khoa
Văn và bâtiment phía Nam cho Khoa Học(toán, lý, hóa và vạn vật, tức khoa học tự
nhiên Sciences Naturelles bao gồm Động, Thực vật và Địa Chất).
Chương trình học. Ở Miền
Nam hồi đó có 2 lần chọn lọc “nhân tài”, kiểu cá vượt Vũ Môn, kinh khủng. Thoạt
tiên vòng loại ở chặng Tú Tài I/II. Ai có khả năng thì cứ đi thi Tú Tài Bán. Đậu
Tú Tài Bán thì mới được học lớp Đệ Nhất, thi lấy Tú Tài II. Vì vậy lớp Đệ Nhất
có sĩ số lưa thưa trong các trường trung học trong khi sĩ số lớp Đệ Nhị thì
đông đảo vô cùng. Có Tú Tài Bán thì được vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Vòng loại
này cung ứng nhân lực cho trường Thủ Đức chăng? Có Tú Tài II mới được ghi danh
vào Đại Học. Năm nào thi cũng đậu thì được hoãn dịch(hoãn nhập ngũ) vì lý do học
vấn(vô hình trung Đại Học là chỗ trốn lính!) Vòng loại thứ 1 này rất lớn. Người
ta thường nghe câu than thân sĩ tử thời đó là: “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ/Em nên trở về
làm “đ” để nuôi con/ hay đi lấy Mỹ để nuôi con.” Câu tự thán nói lên
nỗi chán chường “vượt Vũ Môn” ở vòng loại này. Tuy đã được sàn lọc ở tuyến thứ
nhất, nhưng đến tuyến thứ 2 bọn sinh viên tụi tui vẫn còn phải phấn đấu rất nhiều để khỏi bị loại khỏi
“vòng chiến để được học hành” Cuộc chiến đấu cũng không kém kinh khủng. Hàng năm ở viện Đại Học
Sài Gòn, chỗ công trường Chiến Sĩ(sau là hồ con Rùa) có hàng chục ngàn tân cựu
sinh viên chen lấn toát mồ hôi để ghi danh vào Đại Học(ghi tự do chứ không thi
tuyển gì hết). Nhưng hàng năm danh sách sinh viên đậu năm dự bị chỉ trên vài trang
giấy A4 ở mỗi ngành mà thôi. Ở ĐHKH-SG thì có 7 chứng chỉ dự bị đại học:
MG(Mathematic General). Năm 1963 thêm vật lý nên gọi là MGP(Toán Lý); Toán Lý
Hóa(MPC); SPCN(Lý Hóa Nhiên, tức Sciences Naturelles, nghĩa là Vạn Vật); BPC(Lý
Hóa Sinh, tức biologie và lý hóa, đào tạo cho sinh viên vào trường Y). Đến năm
1963 thì BPC đổi thành APM(Annee Propedeutique Medecine) cho sinh viên theo học
ngành bác sĩ và APD (Annee Propedeutique Dentiste) cho sinh viên theo học nha
sĩ. Năm đó Ngô Đình Lệ Thủy, con bà Ngô Đình Nhu, theo học lớp APM đầu tiên
này. Nói chung các năm dự bị đều thoát thai từ chữ “propedeutique” mà nghĩa tiếng
Anh là pre-university instruction or class mà ra. Khỏi ải dự bị vào chuyên khoa
thì dễ chịu hơn. Tỉ lệ đỗ cũng khá cao hơn cấp dự bị. Lấy đủ 3 chứng chỉ chuyên
khoa (khoảng 3 năm) như qui định thì được cấp Cử Nhân Giáo Khoa nếu tự do chọn
chứng chỉ chuyên khoa thì được cấp Cử Nhân Tự Do kém giá trị hơn nhưng cả 2 vẫn
được bổ vào ngạch Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp như tốt nghiệp ĐH-SP. Chương
trình ĐH-SP dạy song song với trường ĐHKH và Đại Học Văn Khoa cho nên sinh viên
có thể lấy 2 bằng Cử Nhân và ĐH-SP cùng 1 lúc được.
Không khí
đại học khác ở trung học chỉ ở năm dự bị mà thôi. Qua cái ải dự bị vào chuyên
khoa thì sinh hoạt y như ở thời trung học. Cũng thầy trò gần gụi biết tên biết
mặt trong 4 bước tường của lớp học với vài chục sinh viên. Tốt nghiệp thì thầy
viết tay vài “móng” lên trên 1 trang giấy nhỏ. Ở bậc dự bị tân sinh viên mới thấy
mình là quan trọng, mình là sinh viên khác với học trò. Sinh Viên học ở trong
cái giảng đường to tổ chảng. Giảng viên cứ cầm micro miệng nói tay viết lên bảng,
chẳng biết đám sinh viên đông đảo bên dưới là ai. Sinh viên không dùng tập học
sinh cổ lỗ sĩ như đứa học trò. Sinh viên ngồi chiễm chệ trong cái ghế giành riêng,
sau 1 cái bàn con gắn liền với ghế, trịnh trọng rút từ từ tập giấy A4 từng tờ từng tờ ghi ghi, chép chép nghiêm
trang như “người trí thức”, chăm chú lắng nghe tiếng giảng viên phát ra từ những
cái loa trong khi dàn quạt trần phát ra âm thanh kêu ro ro đều đặn. Cả giảng đường
im phăng phắc. Tiếng vo ve của một con muỗi bay lạc qua đây cũng nghe được mồn
một. Tác phong sinh viên oai thật.
Cái oai của
sinh viên thời đó không những thấy không khí sinh hoạt ở đại giảng đường mà còn
thấy không khí ở trong thư viện, ở trong phòng thí nghiệm nữa. Một nét khác lạ khác
không khí ở bậc trung học mà sinh viên tự hào là nghe giảng và làm bài bằng tiếng
Pháp. Thoạt tiên tôi choáng váng khi thấy các thông cáo dán ở trước cổng trường
đa số bằng tiếng Pháp. Tôi hoảng sợ nhưng rồi cũng quen kéo lếch theo. Năm
đó(1963) chuyển ngử ở bậc dự bị chưa hoàn tất. Gần một nửa môn học hãy còn giảng
bằng Pháp Văn. Công văn thông cáo ghi bằng tiếng Pháp mà tôi thấy là cái gì ghê
gớm lắm. Một cái gì rất lạ đối với tôi. Ghi ghi, chép chép ở giảng đường bằng
tiếng Tây chẳng qua chỉ để cho oai thôi chứ chẳng hiểu mô tê gì ráo. Nhờ trời
có cua(cours) được in ra. Cứ “cày” cho thuộc thì cũng passable được(vượt qua, tạm
được). Cours là bài tổng hợp ghi chép của 1 ban biên tập sinh viên. Sinh viên bận
kiếm tiền(đi dạy thêm là chính) thì có thể đóng tiền lấy cours học vẫn được miến
đi thực tập(Travaux Practiques gọi là TP) đầy đủ. Trình độ của họ vẫn y như
sinh viên chính thống. Làm bài tỏ ra đủ trình độ thì được chấm đậu thôi. Chẳng
ưu tiên cất nhắc hay móc ngoặc, hối lộ thầy cô chút nào. Bộ Danh Từ Khoa Học mà
giáo sư Lê Văn Thới làm chủ tịch cho ra đời từ từ với công cuộc chuyển ngữ ở bậc
Đại Học. Vài năm sau Miền Nam có được 1 nền Đại Học của người Việt Nam không phụ
thuộc chương trình Pháp và người Pháp nữa.
Chuyện chính trị. Tới
đây việc dựng nước của nền Đệ Nhất Cọng Hòa có
được 1 thành tích nhưng về chính trị thì chưa có được thành tích khả quan, chưa
thu phục được đại đa số đồng thuận để tạo nền móng vững bền lâu dài cho đất nước
mới được thu hồi từ tay người Pháp cả 100 năm đô hộ: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/Một trăm năm đô
hộ giặc Tây/Hai mươi năm nội chiến từng ngày/Gia tài của mẹ…” khánh
Ly hát nhạc Trịnh. Nhiều biến động xảy ra. Phật giáo xuống đường rồi Thích Quảng
Đức tự thiêu. Đảo chánh 1-11 “thành công”. Lực lượng phòng vệ phủ Tổng Thống ở
thành Cọng Hòa đầu hàng lực lượng nổi dậy, một phen người ta hồ hởi phấn khởi.
Thành Cọng Hòa sau đó được dùng làm Đại
học Văn Khoa, Đại Học Nông Lâm và Đại Học Dược Khoa. Những năm tháng tiếp theo
đầy rẫy các biến động. Người Mỹ đưa quân vào trực tiếp tham chiến. Chiến tranh
leo thang rồi nền Đệ Nhị Cọng Hòa ra đời cũng không làm sao hạ được cái sốt
chinh chiến. Người ta chán ngán chiến tranh. Một nhạc sĩ và 1 ca sĩ thuộc thế hệ
sinh viên của chúng tôi “ra đời” được nhiều người ưa thích. “Cặp bài trùng” Trịnh
Công Sơn và Khánh Ly. Thế rồi 30-4-1975 chiến tranh đến hồi cũng kết thúc. Một thì
hồ hởi phấn khởi ca hát “rừng núi giang tay…”. Một cất lên tiếng hát bi
ai “sai gon
ơi…”. Một thời tuổi trẻ của chúng tôi bị cuốn xoay trong vòng xoáy
đó. Trong đó có nhiều người đồng sàng dị mộng. Sau 1975 mới “hay” ra thì sự đã
rồi. Các mốc thời gian: Năm 1955 Nền Cộng Hòa ra
đời, 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời, 1962 không quân VNCH ném bom dinh Độc Lập, 1963 dinh Gia Long và thành Cọng Hòa thất thủ, 1965 Mỹ trực tiếp tham chiến, 1975
Nền Cọng Hòa ở Miền Nam cáo chung.
Vài hàng
phát họa, mong hậu sinh biết 1 số ngôn từ và tổ chức nền giáo dục ở Miền Nam Việt
Nam tránh hiểu lầm như hồi mới “giải phóng.” Có chuyện cải vả cười ra nước mắt
và có thể làm điêu đứng đời 1 con người. Chuyện anh cán bộ giáo dục Miền Bắc
nói anh giáo viên lưu dung Miền Nam “cái thứ Giáo Học Bổ Túc và ĐH-SP Ban Thường Xuyên là đồ bỏ
đi!” Anh Miền Nam sửng cồ nuốt hận ừng ực cố giải thích nhưng 2 anh
cãi với nhau như vịt nghe sấm, như anh Campuchia cãi với anh Việt Nam. Người ta
cố tạo ra cách nói khác đi hay khác biệt do tự nhiên xa cách để mà 2 miền Nam-Bắc
ruột thịt khác biệt nhau nhưng vẫn nói là nghĩa Đồng Bào. Bằng Giáo Học Bổ Túc
và ĐH-SP Ban Thường Xuyên là hệ đào tạo chính qui đó, khác bổ túc và thường
xuyên “dỏm” đó ông ạ. Khoảng năm 1960 hệ đào tạo ở Miền Nam khá hoàn chỉnh.
Toàn Miền Nam chỉ có 3 trường đào tạo chính qui giáo viên tiểu học. Đó là trường
Sư Phạm Vĩnh Long, Trường Sư Phạm Sài Gòn(bên cạnh ĐH-SP mở ra đường An Dương
Vương) và trường Sư Phạm Qui Nhơn. ĐH-SP Ban Thương Xuyên học 4 năm(bắt đầu từ
năm 1963) như bậc Cử Nhân(1 năm dự bị và 3 năm chuyên khoa) thay vì 3 năm như
trước đó. Một trường họp của tôi cũng tương tự. Tôi suýt bị bà viện trưởng viên
Pasteur Nha Trang đuổi việc vào năm 1980 vì biết tôi vừa đi dạy vừa thi lấy bằng
Cử Nhân Giáo Khoa Vạn Vật. Bà ta chê bằng của tôi là thứ dỏm, thứ tại chức!
Mùa Hè 49 năm sau(1963-2012)
Huỳnh Bá Củng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét