Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2025

Nữ phi công bay vòng quanh Thế Giới Nguyễn Anh Thư tử nạn.

 Nguyễn Anh Thư là con gái của anh Nguyễn Đình Thảng, cháu gái con bà chị thứ 2 của Tạ Thị Biên, người ở Hòa Xuân TuyHòa Phú Yên cũ.

Nguyễn Anh Thư qua đời ngày 30.7.25 khi đang bay mà theo cô chia xẻ trên mạng xã hội  là sẽ đi từ bang Indiana đến Pennsylvania. Máy bay rơi xuống thành phố Greenwood Indiana(báo ThanhNiên). Theo Anh Thư chia xẻ trên mang xã hội kế hoạch bay trong năm nay bắt đầu chuyến khởi hành từ thành phố Oshkosh bang Wisconsin vào ngày 27.7.25.

Theo Đại Học Purdue bang Indiana(nơi Anh Thư đã theo học) hành trình năm 2024 đã dừng chân ở 25 điểm.

Hành trình bay 45 ngày vòng quanh Thế Giới mà Anh Thư vạch ra năm 2020 vì Covid19 không thực hện được như sau:

45 ngày là từ ngày 15.5.20 đến 1.7.20. Đường bay chừng 50.000Km,  khởi hành từ Georgia(Bắc Mỹ) bay qua Greenland, ngoặc xuống Iceland, đến AnhQuốc. Một vòng quanh các nước phía bắc ĐịaTrungHải rồi đến TâyÁ. Đi xuống Nam Á(ÂnĐộ-Bangladesh). Tới ĐôngNam Á(TháiLan). Đâm ngang qua CamRanh để về quê nhà. Xuống SaiGòn, rồi qua Phi. Vào TháiBìnhDương. Xuống Papua New Guinea. Tới Úc. Trở lên và vào TBD để đến Hawai. Rồi vượt nửa TBD để về Mỹ. Hành trình không ghé PhiChâu và TrungQuốc.

Than ôi giấc mơ nay còn đâu. Sai Gòn 1.8.25 Ongtampy. Vào địa chỉ sau đây xem thêm về Nguyễn Thi Anh Thư: Xem thêm

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Tĩnh DakLak Ba Mươi Tư Xã Phường

 

Ngày 01.7.25 tên tĩnh Phú Yên bị xóa sổ trên bản đồ. 34 xã phường tĩnh DakLak Mới hiện lên ở phía Đông Bắc của tĩnh. Khắc nhập, khắc xuất, tách tĩnh, nhập tĩnh là chuyện thường tình của nhà làm hành chánh nhưng núi sông địa hình con người vẫn như thế. Trang web gới thiệu 34 xã phường nói trên cho ta thấy địa hình tĩnh Phú Yên mà trước kia gọi là Phủ Phú Yên hiện lên vẫn như cũ, vẫn là khu phân bố dân cư trên lưu vực của 2 con sông Đà Ràng và Kỳ Lộ(Sông Cái) với phụ lưu của chúng là sông Bàn Thạch và Sông Cầu đúng như lịch sử mô tả phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa năm 1611(Việt Nam Sư Lược Trần Trọng Kim).

Danh sách 34 xã phường nổi lên 2 thành phố bỡi tên của 7 phường. Đó là hình ảnh 2 huyện của phủ Phú Yên sau này là tĩnh PhúYên. 24 Phường Xuân Đài, 26 Phường Sông Cầu là hình ảnh thành phố Sông Cầu ở cữa Sông Cái(Kỳ Lộ) nói lên hình ảnh của huyện Đồng Xuân xa xưa còn đó, hình ảnh thủ phủ của Phú Yên dài lâu 344 năm kể từ năm địa danh Phú Yên xuất hiện năm 1611 đến năm 1955 là năm tên VNCH xuất hiện. 5 tên phường ở phía nam là 1 Phường Phú Yên, 2 Phường Tuy Hòa, 3 Phường Bình Kiến, 4 Phường Đông Hòa, 5 Phường Hòa Hiệp là hình ảnh Thành Phố TuyHòa, là hình ảnh của Huyện TuyHòa xa xưa. Đó là thủ phủ của Phú Yên thời cận đại, thời VNCH xuất hiện sau khi Thủy Nông Đồng Cam đi vào hoạt động. Châu thổ sông Đà Rằng mới trở trù phú. Trước đó châu châu thổ này khô cằn nghèo nàn. Phú Yên chủ yếu chỉ là huyện Đồng Xuân trên châu thổ sông Kỳ Lộ. Địa bạ Phú Yên cho thấy đến đời vua Nguyễn bờ phía bắc sông Đà Rằng, vùng Hòa Thắng, Hòa Quang vẫn là Tổng Thượng của huyện Đồng Xuân.

Còn lại 27 xã kia phân bố trên phần đất còn lại của 2 lưu vực sông Cái(Kỳ Lộ) và Đà Rằng.

Sài Gòn, ngày 7.7.2025, Ongtampy ở cái tuổi mụ CanhThìn 1940, Nhân Sinh Bát Thập(87 tuổi) Cổ Lai Hi.

  










 

Địa Hình Tĩnh Dak Lak Mới

 

Địa hình. Ngày 1.7.25 tên tĩnh Phú Yên cũ biến mất. Tĩnh Dak Lak cũ thêm một vùng đất gồm 34 xã phường ở phía đông giáp biển thành tĩnh Dak Lak mới. Khắc nhập, khắc xuất là chuyện của con người nhưng núi sông cứ như thế. Địa hình sông núi cứ như cũ. Nhà hoạch định vùng miền thường lệ lấy đường sống các dãy núi hay đường đáy sông suối làm biên. Tĩnh Phú Yên cũ bắc giáp Bình Định, tây giáp Gia Lai và Dak Lak, nam giáp Khánh Hòa, đông giáp biển. Đường biên giới vẽ địa hình tĩnh phú yên cũ thành hình một con cóc ngồi chồm hổm trông ra biển. Nay địa hình tĩnh Dak Lak mới cũng có một phần hình con cóc trông ra biển Đông.

Địa hình 34 xã phường vẫn giữ hình con cóc. Đầu con cóc là hình ảnh đường biên chạy trên đường đĩnh dãy núi đèo Cù Mông chạy chênh chếch theo hướng Đông Bắc xuống Tây Nam từ chổ gần thành phố Qui Nhơn xuống tới đèo La Hai có QL19C đi qua. Từ đó đường biên đánh một vòng ôm khối núi La Hiên thành hình ảnh cái vai con cóc.

Núi La Hiên là đỉnh điểm cao nhất tĩnh. Từ đây chạy thọt vào bên trong một dãy núi thấp hơn là dãy núi Vân Hòa phân chia rành rọt lưu vực sông kỳ Lộ(sông Cái) và  lưu vực sông Ba Hạ & sông Đà Rằng. Chỗ 2 dãy núi tiếp giáp nhau là đèo Trà Kê. Trên đường đỉnh dãy núi Vân Hòa là đường DT643 từ Sơn Định, Sơn Long xuống Hòa Đa. Nước sông Ba chẳng thể nào chảy qua sông Cãi. Bỡi thế ở Phú Yên có câu ca dao “Nước sông Ba chảy qua sông Cái/Anh đã có vợ rồi chọc gái làm chi. ”Đã có vợ rồi thì không nên chọc gái, ghẹo gãi làm chi. Ý là không thể đảo ngược để lấy gái được.

Sông Ba dài nhất ở Nam Trung Bộ VN, phát nguyên trên cao nguyên KonTum, chảy dọc theo biên giới Bình Định Kon Tum xuống tới đèo An Khê gặp khối núi LaHiên thì khựng lại, đổi dòng chảy sang Tây vào tĩnh Gia Lai rồi chảy xuống Nam. Rặng Đại Lãnh chạy từ biển vào biên giới Lâm Đồng Dak Lak. Dòng song Ba khựng lại, ngoặc Trái đổ ra biển tạo ra song Đà Rằng. Hình ảnh song Ba trong giống song Mekong phát nguyên từ Tây Tạng chảy qua Trung Quốc, tới Myama, Lào bị d Trường Sơn chặn lại đổi dòng chảy xuống Campuchia rồi bị khối núi đá vội ở bờ vịnh Thái Lan chặn lại, đổi dòng chảy ra biển. Dân Nam Bộ đội ơn cách chảy của dòng MeKông, dân Tuy Hòa đội ơn cách chảy của dòng sôn Ba là như vậy.

Từ khối núi La Hiên đường biên theo đường đáy suối Cà Lúi đánh một vòng cung lõm đổ nước vào sông Ba, vẽ ra hình lưng con cóc. Tiếp theo đường biên treo đường đáy hạ lưu sông Krong Nang vẽ nên ‘đuôi’ con cóc. Từ đây đường biên theo đường đỉnh dãy núi Đại Lãnh vẽ ra chân con cóc. Cuối cùng đường viền dọc bờ biển vẽ ra bụng con cóc. Nay hình ảnh con cóc vẫn hiện lên trên bản đồ tĩnh Dak Lak mới vào ngày 1.7.25, địa hình hình ảnh 34 xã phường ở phía Đông Bắc của tĩnh. Vũ điệu Chào Mời Phú Yên của CGSSPQN Đoàn Phú Yên tại nhà hàng Đông Hồ Eden ngày 6.7.25 sự thực là lời chào 34 xã phường của tĩnh Dak Lak Mới. Lời chào 34  xã phường gởi đến các bạn gần xa.

Đăng bài này để mai kia mốt nọ có thay đổi vùng miền trên bản đồ tĩnh Dak Kak Mới sẽ làm mất hình ảnh con cóc của địa hình tĩnh Phú Yên trước khia là phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và TuyHòa có bề dày lịch sử 414 năm(1611-2025)!

SaiGòn ngày 24 tháng 7 năm 2025, Ongtampy.

    34 Xã Phường của tĩnh Dak Lak thông ra biển
                          Hình chân con cóc
                         Hình đầu con cóc
                     Hình đuôi con cóc
                            Ba con sông
                         Hình lưng con cóc
         Đường biên giới dọc theo sông Cà Lúi
                       Hình đuôi con cóc
                     Hình vai con cóc

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2025

Duyên Nợ Lịch Sử Dak Lak Phú Yên

 vDuyên Nợ Lịch Sử DakLak Phú Yên

Ngày 01 tháng 7 năm 2025 tĩnh Dak Lak và Phú Yên hợp nhất thành tĩnh mới  tên là tĩnh Dak Lak có 34 xã phường ở về phía Đông Bắc thuộc  địa bàn tĩnh Phú Yên cũ. Nước Nam Bàn, ThủyXá Hỏa Xá(tĩnh Dak Lak cũ) và nước Hoa Anh(tĩnh Phú Yên cũ) là tiền thân của Tĩnh Dak Lak mới. Sát nhập 2 tĩnh là do duyên nợ lịch sử mà thôi. Duyên nơi lịch sử là như vậy.

 Duyên Nợ Lịch Sử. Nước Nam Bàn và Hoa Anh có lịch sử không rõ ràng vì có sự kiện tụng của người Chiêm Thành đòi Minh Triều phân xử. Đại Việt thì dấu giếm việc ở Chiêm Thành.  Sử của triều Nguyễn sưu tra tài liệu, Phủ Biên Tạp Lục và nhiều sử liệu về sau làm lịch sử của chúng rõ thêm. Đến khi tiếp cận được sách Minh Thực Lục thực lục những việc ở Chiêm Thành thì lịch sử mới rõ ràng ra. Bấy giờ ta mới hiểu nước Nam Bàn của con cháu Bí Cái thuộc triều vương Chiêm Thành thứ 13 là đất Dak Lak. Nước Hoa Anh do các đầu mục Chiêm Thành làm chủ là đất Phú Yên. Triều Trà Toàn Trà Toại là triều vương Chiêm Thành thứ 14 bị diệt vong năm 1475.  Tiều Nam Bàn truyền từ đời Tra Á Ma Vật Am tới đời Cổ Lai thông sứ với nhà Minh. Lần thông sứ cuối cùng vào năm 1543. Từ đó lịch sử nước này không rõ nữa.  Nước này bị diệt vong? Nước Thủy Xá Hỏa Xá xuất hiện trên địa bàn Dak Lak. Phải chăn con dân nước Nam Bàn hòa nhập với các bộ tộc cùng những người Chiêm Thành miền xuôi lên tị nạn hình thành ra nước Thủy Xá(TX) Hỏa Xá(HX)? TXHX thông sứ với Triều nguyễn ở Huế qua cữa ngõ PhúYên. Nam Bàn sáu đó là Thủy Xá Hỏa Xá và Hoa Anh là tiền thân của tĩnh Dak Lak ngày nay. Đọc trích đoạn Minh Thực Lục sau đây để biết rõ lịch sử Nam Bàn Hoa Anh,  tiền thân tĩnh Dak Lak Mới ngày nay.

Sau trận hạ thành Đồ Bàn ở cảng Tân Châu(Chiêm Thành cảng) hậu duệ các triều vua Chiêm sang triều nhà Minh xin phong và xin phân xử. 

Năm 1471 


Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2025

Trích Minh Thực Lục Về Chiêm Thành &ĐạiViêt.

 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư(Sử của triều Lê) viết vắn tắt: “Năm 1471 tháng 3, mồng một  hạ thành bắt sống 3 vạn, chém 4 vạn, mồng 2 đem quân về, Bồ Trì Trì chạy về Phan Lung xưng thần chịu nộp cống được phong vương, hưởng 1/5 diện tích. Phong vương cho Hoa Anh và Nam Bàn thành 3 nước để dễ ràng buộc...Tháng 11 ngày mồng 8 đánh bắt Trà Toại và vợ con.”Minh Thực Lục chép đánh bắt Trà Toại 3 năm sau. Vì Chiêm Thành sai sứ sang nhà Minh kiện cáo. Nhà Minh sẽ lấy cớ đem quân sang nên sử Việt dấu việc xảy ra ở Chiêm Thành. Lịch sử ở Phú Yên trở nên mờ mịt. Đến khi Khâm Định Việt Sử(Sử Nhà Nguyễn) ra đời thì sự việt rõ hơn. Đến khi tiếp xúc với Minh Thực Lục thì sự việc lại rõ ràng ra. Đọc trích đoạn Minh Thực Lục sau đây sẽ thấy.

-9/9 TH7(26-6-1471). Thực lục viết nói ban cho bọn Bồi thần Nguyễn Đình Anh yến và các loại lụa. Khi về vua Minh ban săc cho Lê Hạo “…không được vượt biên cảnh cướp phá.”

KĐVS(Sử của triều Nguyễn) viết việc năm 1471 Lê Thánh Tông sai bọn Nguyễn Đức Trinh và Phạm Mục sang báo cáo với nhà Minh, đại lược trong lời tâu nói: "Tháng 8 năm ngoái, vua nước Chiêm Thành đem quân đánh úp đất Hóa Châu nước tôi, tôi thân hành đem người trong nước đi cứu viện Hóa Châu. Tháng 5 năm nay, vua Chiêm Thành lại bắt hơn 10 vạn quân vây hãm tôi mấy trùng; trong lúc nguy cấp, tôi phải phá vòng vây để đón đánh lại. Người nước Chiêm vẫn oán giận họ, không còn có chí chiến đấu, cùng nhau người thì phản lại, người thì bỏ trốn. Quân tuần tiễu của tôi kéo đến quốc đô nước ấy, thì dân chúng nước ấy không giúp rập vua, nên người bỏ binh khí chạy trốn, người quay giáo đầu hàng, vua Chiêm Thành đem quân đi về phương nam, tôi thấy thế, liền đem quân về nước giữ vững cảnh thổ cũ nước mình. Tôi trộm nghĩ: Chiêm Thành xưa nay vẫn thù địch với nước tôi, nay lại đem quân đến đánh úp cướp bóc, tôi bất đắc dĩ phải mạn phép tập hợp binh sĩ để ứng phó, trong lúc vội vàng chỉ muốn gỡ mối lo nhiễu nhương ở nơi biên quận. Làm như thế, cũng e rằng trái với lời ân cần răn bảo của bậc thánh minh, tôi rất lấy làm lo sợ. Bây giờ việc tiến lui của tôi chỉ xin theo mệnh lệnh thiên triều định đoạt" MTL đăng việc đi sứ của Nguyễn Đức Trinh vào năm sau, tức năm 1472

-21/5TH8(27-6-1472)thực lục viết nói nước Chiêm Thành sai sứ Lạc Sa đến cấp báo rằng “…Vào tháng 2 TH7 quân An Nam đến đánh phá kinh thành bắt được quốc vương Bàn La Trà Toàn cùng gia thuộc hơn 50 người…Nay em của vương là Bàn La Trà Duyệt(Minh Thực Lục lầm tên. Em Trà Toàn là Trà Toại) tạm thời coi việc nước. Cúi xin phân xử. ” Thực lục viết tiếp nói tờ tấu gửi xuống dưới. Bọn thần tâu rằng Lê Hạo có âm mưu thôn tính Chiêm Thành. Thực lục viết tiếp nói An Nam mấy lần đánh phá Chiêm Thành… không có cách xử trí thì mất lòng qui phụ của Chiêm Thành…Nên sai quan mang sắc dụ, bắt phải trả lại ấn tín, quốc vương cùng gia quyến bị bắt. Thực lục viết tiếp nói chỉ dụ phán “Bắt phải sai quan đi, đợi sứ thần An Nam đến sẽ trao sắc dụ.

-22/6 TH8(27-7-1472). phong em cố quốc vương Chiêm Thành…Bộ Lễ tâu xin theo lệ sai quan đến phong thế tử Ma Ha Bi Cai(Minh Thực Lục lầm em của vua là Trà Toại thuộc triều Trà Duyệt Trà Toàn thứ 14. Triều Bí Cái thứ 13 chịu qui phụ ĐạiViệt)để làm vẻ vang cho lời xin. …Trần Lăng, Lý Sang Nhân đến phong.

-13/9TH8(14-10-1472) thực lục viết nói sắc dụ Lê Hạo chớ xâm vượt lãnh thổ Chiêm Thành... Nguyễn Đức Trinh dâng thư tự trình bày nói Chiêm Thành xâm lấn Hóa Châu... Vua Minh sai Đức Trinh mang sắc dụ Lê Hạo...Dụ có đoạn” “nhưng nước  vương với Chiêm Thành thế lực lớn nhỏ không cần phải biện thuyết. Nếu bọn họ gây hấn trước, thì thật không biết độ đức lượng sức nên gây ra sự bất nghĩa; nếu vương vin vào việc họ quấy phá nhỏ, rồi giận lên hiếp kẻ yếu gây hấn lớn thì hợp với dạo nghĩa ư! Khi sắc đến  vương nên bỏ qua những mất mát nhỏ tăng điều đại nghĩa, trả lại những người bị bắt, răn đe quan lại nơi biên giới đừng sinh sự lập công, hưng binh gây oán hoặc chyên việc báo thù gây nên sự đau buồn, ngỏ hầu trời soi sáng, vĩnh viễn hưởng danh thơm. Khâm thử!”

-14/12TH10(21-1-1475). Thực lục viết “Hữu cấp sự trung khoa Công Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại thứ đã mang đi như chiếu  sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho quốc vương Bàn La Trà Duyệt(Minh Thực Lục lầm tên. Đó là Trà Toại, em Trà Toàn), khi hàng hải đến cảng Tân Châu Chiêm Thành, quân phòng thủ từ chối không cho vào, người thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm còn quốc vương Chiêm Thành tị nạn tại Linh Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt(Trà Toại) bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành đổi tên thành châu Nam Giao(Đánh bắt Trà Toại 3 năm sau hạ thành Đồ Bàn thay vì vào Tháng 11 ngày mồng 8 đánh bắt Trà Toại và vợ con như ĐVSKTT viết trên đây). Bọn Tuấn không dám ghé vào; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân nên giả lấy cớ bị gió bão rồi đi tiếp đến Mãn Lạt Gia. Buôn bán, lại dụ vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành , cùng việc quốc vương Mãn Lạt Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy đủ.” Thực lục viết tiếp nói việc được đưa xuống cơ quan hữu trách. Bộ Lễ tâu nói nên đợi sứ Mãn Lạt Gia nhập cống...Bộ Binh tâu nói An Nam cậy mạnh thôn tính nước được triều đình phong tước. Việc quan hệ không nhỏ...tâu hài tội thảo phạt...chưa biết được nguyên do Chiêm Thành diệt vong, không nên kinh động. Chờ năm sau vào kỳ An Nam triều cống.

-6/5 TH11(9-6-1475). Thực lục viết nói sứ Mãn Lạt Gia vào triều cống...lúc trở về ban thưởng cho vương nước này(Mãng Lạt Gia)...Ghi chú số 1997 ĐVSK bảng điện tử nói Lạt Gia là Mãn Lạc Gia, tức là Malacca.

-25/8TH11(24-9-1475)Thực lục đăng lời tâu của Lê Hạo:”Năm trước nhân quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị người em là Bàn La Trà Tọai giết. Toại tự lập lên làm vua, sắp xin cầu phong; lại bị con Bàn La Trà Duyệt là Trà Chất Đài Lai giết, từ đó nước trong nước này loạn lạc nổi lên, không có một ngày yên ổn. Việc đó không phải là lỗi của nước thần. Nay tuân theo chỉ dụ của Thiên Tử dẹp binh đao, hòa mục với lân bang; số người nước này bị bắt gồm 740 trai gái đều cho trở về nước.”(ĐạiViệt khai báo nói Trà Toàn Trà Toại bị giết và đất bị chiếm đóng là do nội loạn). Thưc lục viết tiếp nói lời tâu đưa xuống. Bộ Binh trình nói lời của Lê Hạo sơ lược không nói đến việc xâm chiếm Chiêm Thành, không giống lời tâu của bọn Hữu Cấp sự trung Trần Tuấn. Thực gian không quyết được. Thực lục đăng sắc dụ của Hoàng Thượng ban cho Bồi thần Lê Hoằng Dục vào triều cống ngày 21/8TH11(20-9-1475) khi về nước mang sắc dụ Lê Hạo:“ Trước đây nhân Bàn La Trà Duyệt(Trà Toại) tâu rằng vương nước này là Bàn La Trà Toàn bị nước ngươi bắt, Chiêm Thành hiện nay không có chủ  nên đến xin phong tước. Trẫm thể theo đức hiếu sinh của trời đất chấp nhận lời trần tình sai sứ đến phong. Đến lúc sứ về tâu rằng đất nước Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm đoạt, đổi thành châu ấp. Trẫm nghi nhưng chưa tin, nay được ngươi tâu rõ ràng  rằng Chiêm Thành dùng binh gây oán xâm nhiễu biên cảnh lân bang, đến nổi bản thân chết, nước bị phá; tất cả đều tự gây ra. Sự việc chưa rõ ràng nhưng lý có thể như vậy; huống lời và ý của vương khẩn khoản, chắc không phải dùng lời lẽ để che dấu lỗi lầm. Nhưng Chiêm Thành là nước truyền từ lâu đời, trước kia há không có một lực lượng nào mạnh có sức thôn tính nước này, nhưng sử sách chưa từng nghe,  vậy bài học được mất có thể thấy được. Nay nếu  nước này thình lình bị tiêu diệt, không những trái với chiếu chỉ của triều đình; mà còn e  bị các nước phiên tại hải ngoại sinh sợ, rồi gây sự tranh giành, như vậy đối với vương có lợi ư!. Sắc đến vương nên sửa đổi, cho người trong họ vua Chiêm cùng dân chúng trở về, khôi phục đất đai để cho không tuyệt nòi giống. Làm được vậy thì việc nối dòng bị đứt(sách dịch thiếu chữ “không”?), kính trời thờ nước lớn của vương vẹn cả hai đường. Vương hãy gắng cho được

-26/3TH14(28-4-1478). Thực lục đăng lời tâu của Lê Hạo:”Đầu mục(Quan địa phương có thế lực) Chiêm Thành Ba Lung Ma Ha trước đây thông hiếu với nước thần. Vào năm Thành Hòa thư 11(1475) nước y thu hoạch được nhiều thuyền của nước Lưu Cầu(Ngày nay là chuỗi đảo Okinaw thuộc Nhật Bản) do gió thổi trôi dạt đến; bèn mang quân đến nước thần xâm lược; bị quân tại biên giới đánh bại(Đại Việt tâu nói trận đánh Việt-Chiêm năm 1475 không phài Đại Việt đánh bắt Trà Toại như sứ thần Trần Tuấn tâu mà là trận Đại Việt đánh đầu mục ChiêmThành nổi lên chiếm đất thần phục ĐạiViệt nay làm phản). Nay bồi thần Lê Hoằng Dục từ Thiên Triều trở về dâng đặc dụ trách thần chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành đổi thành châu ấp. Vì việc này, thần không thể không lọc máu viết lời trần tình để đoan chắc rằng không có. Phàm đất đai mà Chiêm Thành được phong rất cằn cỗi, nhà thì nghèo nàn, vườn không có tơ dâu, núi không có của báu, biển thiếu lợi về cá muối; chỉ có ngà voi, sừng tê giác, tô mộc, trầm hương mà thôi; mà nước thần sản xuất những thứ đó nhiều, nên không cho là quí. Lấy được đất đó không thể ở được, lấy được dân đó không dùng được, được sản phẩm đó không đủ để giàu, được cái thế đó cũng không trở nên mạnh được. Giữ gìn đất đó rất khó, mà lợi thì ít. Phàm mất nhiều mà lợi thì ít, họa thì rõ ràng, mà danh thì mờ mịt; đó là lý do tại sao thần không chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành để biến thành châu quận(Đoạn môt tả cho ta nhận ra đất đó là xứ khô cằn giàu trầm hương bí hiểm Khánh Hòa-Dak Lak(nước Nam Bàn) và PhúYên(HoaAnh). Nay triều đình lại dụ thần trả lại đất đai cho Chiêm Thành để nước đó không mất chỗ thừa tự. Thành thực thần cho rằng Thiên sứ(Trần Tuấn) trong lúc vội vã hỏi han điều tra không rõ ràng; mà dân Chiêm Thành chạy loạn thì có mối thù nước thần nên lời nói không đáng tin. Vậy xin đặc sai sứ giả Thiên triều đích thân đến xem đất đai và phục hưng dòng bị tuyệt khiến cho nước Chiêm Thành trên dưới được an tập; nơi biên thùy của thần cũng được yên ổn để làm nước phiên của Trung Quốc, có ích cho người phương xa, đó là ý nguyện của thần vậy. Kính cẩn sai Bồi thần Nguyễn Đạt Tế tâu lên”Thực lục viết nói hoàng Thượng(vua Minh) mệnh đem tấu chương này xuống dưới bàn luận.

-30/7TH14(27-8-1478) Thực lục viết: ”Quốc vương Chiêm Thành(Hậu duệ vương triều trước thứ 13 Bí Cái. Trà Toàn triều thứ 14) sai người chú Ba La Á Đệ cùng bọn sứ thần La Tử đến dâng biểu viết trên vàng lá và triều cống sản vật địa phương.

-6/8TH14(2-9-1478) Thực lục viết: ”sai Cấp sự trung khoa Lê Phùng Nghĩa, Hành Nhân Trương Cẩn mang chiếu chỉ phong cho Tế Á Ma Vật Am(là con cháu triều thứ 13 của Bí Cái. Tế Á Ma Vật Am nói ở trong núi, tức là nước Nam Bàn. Hạ thành Đồ Bàn năm 1471. 3 năm sau đánh bắt Trà Toại năm 1475 và 7 năm sau mới hình thành nước Nam Bàn Hoa Anh và nước Nam Chiêm Thành của Bồ Trì Tri để thành 3 nước ràng buộc. ĐVSK TT thì viết vắn tắt lập 3 nước ngay trong năm 1471. Không biết vị trí Nam Bàn Hoa Anh ở đâu!)  làm quốc vương Chiêm Thành . Tế Á Ma Vật Am sai người tâu rằng người An Nam trả lại một cõi đất phía Nam để cai quản và làm chủ nước này(nước Nam Bàn) nhưng sợ uy trời không dám tự tiện chủ trì, bèn sai sứ tâu trình và xin phong . Bỡi vậy mới có mệnh này(7 năm sau hạ thành Đồ Bàn mới biết tên vua Nam Bàn là ai!). Ghi chú của sách dịch nói Tề Á Ma Vật Am Minh sử chép là Trai Á Ma Phất Am. ĐạiNam LiệtTruyện chép giống Minh Sử. Việt Sử Thông Giám Cương Mục Khảo Lược  chép là Tề Á Ma Phất Yêm(Đường thông sứ có lẽ là Ninh Hòa mượn đất Nam Chiêm Thành của Bồ Trì Tri hay đất Khánh Hòa thuộc Nam Bàn. Đất bắc rặng Đèo cả thuộc nước Hoa Anh). 

-9/5TH15(29-5-1479). Thực lục viết: ”Tá phó ty Hành Nhân Trương Cấn mang chiếu thư đến phong cho quốc vương Chiêm Thành(Vua Nam Bàn Tế Á Ma Vật Am) qua huyện Thanh Giang, Giang Tây gặp sóng gió phá hư thuyền , chiếu thư và đồ vật đều bị hư ướt. Quan thủ thần trình lên. Bộ Lễ tâu bàn rằng “Chiếu thư và lễ vật nên thay mới , riêng sai hành nhân đưa đến cho Cẩn; những vật khác không cần lấy ra từ kho trong triều, lệnh ty Bố Chính Quảng Đông cho chế ra giống y như vậy. Lại bảo rằng “tờ tấu không có tên họ viên chánh sứ; lệnh tuần án Giang tây, ngự sử xét sự thực trình lên” Hoàng Thượng chấp nhận  ”

-21/9TH17(13-10-1481) Thực lục viết”Ngày Nhâm Thìn, Cổ Lai(vua thứ 2 của Nam Bàn thay Tế Á Ma Vật Am) nước Chiêm Thành sai cháu vương là Cap Na Ba dâng biểu cống voi, cọp, sản vật địa phương, cùng thỉnh phong. Ban cho áo dệt kim, các vật như lụa màu, đoạn có sai biệt”(Năm1475 đánh bắt Trà Toại. Năm 1478 xuất hiện vua Nam Bàn. Năm 1481 đời vua Nam Bàn thứ 2)

-22/9TH17(14-10-1481) Thực lục viết: Thượng thư bộ Binh Trần Việt tâu: “Nước An Am cách vạn dặm tại nơi u tịch Tây Nam, tiếp giáp với Vân Nam Lưỡng Quảng. Vào năm Vĩnh Lạc vương sư chinh phạt, chia đất này thành quận huyện. Sau đó thủ thần chế ngự không được, lại bị mất trở lại. Nay đâm ra ngỗ ngược làm càn, phía Đông nuốt Chiêm Thành, phía Tây  thôn tính nước Lão Qua, đánh phá Bát Bách, ban sắc ngụy cho ty tuyên ủy Xá Lý, giết Mãn Lạt Gia sứ thần; sự việc không thể không đáng lo. Năm trước có người tại biên giới từ An Nam trở về nói vương nước này muốn xâm phạm Vân Nam. Nhưng mẹ vương đã can gián nên dừng lại. Ngự sử Vương Thứ tâu rằng An Nam sai những tên ngụy, giả làm thương nhân đến dò thám hư thực; lại  nghe rằng có người Giang Tây họ Vương  theo  bọn vong mệnh làm ngự sử ngụy, trù liệu sách lược, đôn đốc binh; mấy lần xâm nhiễu, vị tất không do mưu của tên này? Sứ thần Chiêm Thành cũng nói rằng An Nam sửa soạn 3.000 chiếc chiến thuyền, muốn tập kích Hải Nam; không thể không phòng bị.Thiên Tử phán: “Trẫm lấy lễ ngoại quốc mà đối xử với An Nam; mỗi lần vi phạm lại tỏ sự dung thứ. Nhưng nước này bên ngoài thì tỏ ra cung kính, nhưng trong trí trá, hành động của chúng không thể che dấu được. Binh pháp nói rằng ”Đừng cho rằng kẻ thù không đến, phải dựa vào sự phòng bị”nên ra lệnh thủ thần Vân Nam, Lưỡng Quảng nghiêm cấm bọn vong mệnh vượt biên giới, nếu chúng xâm phạm thì huy động quân lính chống cự

-26-9/TH17(18-10-1481). Thực lục viết nói chiếu dụ Lê Hạo trả lại đất cho Chiêm Thành. Bấy giờ Cổ Lai nước Chiêm Thành(nước Nam Bàn) sai sứ tâu: “Vào tháng tư năm Thiên Thuận thứ 5(Thiên Thuận thứ 5 là năm 1461. Viết sai năm) Giao Chỉ hưng binh xâm lăng nước thần, bắt quốc vương, phá thành trì, cướp ấn quí rồi đi. Em vương là Bàn La Trà Duyệt(Trà Toại) trốn chạy đến Phật Linh Sơn. Vào năm Thành Hòa thứ 6(Thành Hòa thứ 6 là năn 1470 lại sai năm nữa) tấu xin ấn và thỉnh phong. Thiên sứ đến nơi nhưng trước đó Bàn La Trà Duyệt đã bị Giao Chỉ bắt. Thần cùng anh là Tề Á Ma Phất Am trốn trong rừng; sau đó người Giao sợ Thiên Triều, tự sai người tìm kiếm  con cháu người nước thần, cho trở về đất cũ. Giới hạn từ quốc đô tới Chiêm Lạp gồm 5 xứ, lập Tề Á Ma Vật Am làm vương(nước Nam Bàn). Chẳng bao lâu Tề Á Ma Vật Am chết, nay thần đang tạm giữ chức nhưng không dám tự tiện; thỉnh cầu triều đình sai Thiên sứ mang ấn quí đến, phong chức vương. Xin dụ người Giao trả toàn lãnh thổ nước thần gồm 27 xứ gồm 4 phủ, một châu, 22 huyện; phía Đông tới biển Đông, phía Nam tới Chiêm Lạp, phía Tây tới núi Lê Nhân, phía Bắc tới A Mộc Thử Bô gồm hơn 3.500 dặm, ngưỡng ơn Thiên Tửvì tiểu quốc chủ trì việc này.”Sách dịch chú giải nói sứ Chiêm sai lầm năm tháng...Thực lục viết tiếp nói hội các quan bàn định. Thượng thư bộ Lại Duẫn Mân bàn:”Chiêm Thành bị An Nam xâm đoạt đã lâu, triều đình thường răn dụ, An Nam chỉ trả lại 5 xứ(Nam Bàn và Hoa Anh). Nay Cổ Lai không ngại xa xôi đến tố cáo , nếu không chấp nhận lời xin, thì không có gì an ủi người xa xôi có lòng ngưỡng vọng. Nên sai 2 cận thần có uy vọng, giỏi về văn từ lý lẽ, đi sứ An Nam , dụ vương nước này trả lại đất cũ của Chiêm Thành” Thực lục viết tiếp: “Chiếu dụ rằng không cần sai quan đi. Vừa lúc sứ thần An Nam trở về, bèn sắc dụ Hạo.” Dụ rằng: “Trẫm phụng mệnh trời, coi dân như con, suốt biển trong ngoài đều đối xử chung một lòng nhân. Mà các ngươi An Nam và Chiêm Thành thời Tần Hán trở xuống đều là quận huyện của Trung Quốc; cũng không quá xa kinh đô. Mới đây Chiêm Thành tố cáo ngươi hưng binh bắt sống quốc vương nước này, giết nhân dân, đoạt thành trì đất đai. Trẫm động lòng trắc ẩn, hai lần xuống chiếu lệnh ngươi trả lại những thứ đã lấy  để hợp với nghĩa lớn. Ngươi tâu rằng số đàn ông đàn bà bị bắt đã trở về, lại nói lãnh thổ đã yên, há lại có việc xâm tranh. Trẫm tin lời ngươi, không nghi ngờ. Nay Cổ Lai sai người đến thỉnh phong, hỏi lý do mới biết rằng đất này bị nước ngươi chiếm cứ, số lượng trả lại(Nam Bàn&Hoa Anh) chỉ bằng 1/5. Xét việc này thì ra ngươi âm mưu thôn tính nhưng bề ngoài nói rằng hòa mục lân bang, thực hiện việc đại nghĩa; phải như vậy chăng? Trẫm sở dĩ một mực sắc dụ ngươi, không phải có ý tư vị Chiêm Thành; muốn ngươi thể theo trẫm, đối xử cùng một lòng nhân, hòa mục lân bang, thương xót nhân dân, đó là phúc cho 2 nước. Nếu không thèm nghe, không thèm biết, há không xem đến việc đời trước Chiêm Thành phục thù nước ngươi ư! Hãy soi kỹ việc này, những người già cả tại nước ngươi chắc còn nhớ điều đó, đáng xét và suy nghĩ. Người xưa nói rằng một nước có đạo lý cậy đức chứ không cậy sức. Người từ khi thụ phong đến nay không chỉ xâm đoạt Chiêm Thành, mới đây giết sứ thần tiến cống của Mãn Lạt Gia, xâm đen bọn tùy tùng bắt làm nô bộc; gây oán với lân quốc; họ không tố đến nơi, ngươi tự cho là phúc đấy ư! Phàm sợ trời giữ nước, sợ kẻ lớn thương người nhỏ; các bậc hiền triết đều làm, sao ngươi không lo làm việc đó. Khi sắc tới ngươi nên nghĩ đến việc đoàn kết, hữu nghị với lân quốc, trả hết đất đai cũ cho Chiêm Thành, đời đời nối dõi, không đến nỗi tự tuyệt; không những sinh linh 2 nước không bị vướng vào họa binh đao, mà tiếng tốt của ngươi được để lại trong sử sách, con cháu mãi mãi hưởng ân trạch vô cùng. Hãy thực hành kỹ việc này, đừng để hối hận về sau

SUA TOI DAY


-15/10TH17(6-11-1481). Thực lục viết nói Hành nhân Trương Cấn đi sứ Chiêm Thành mắc tội bị hạ ngục. Thực lục viết tiếp: “Trước đó Cấn cùng Cấp Sự Phùng Nghĩa phụng mệnh mang sắc ấn phong vương cho cháu quốc vương Chiêm ThànhTề Á Ma Vật Am. Bọn chúng mang nhiều hàng hóa để bán kiếm lời; khi đến Quảng Đông nghe Tề Á Ma Vật Am chết, người em là Cổ Lai sai bọn Cáp Na Ba đến xin phong. Nghĩ rằng về không sẽ mất lời, bèn đi vội đến Chiêm Thành. Người Chiêm Thành cho biết sau khi người cháu xin phong bị Cổ Lai giết. An Nam ban sắc ngụy lập Đề Bà Đài Gỉa nắm quyền quốc sự. Bọn Cấn không đợi mệnh của triều đình, mang ấn trao cho Đề Bà Đài Gia, phong làm vương. Bọn chúng được hối lộ hơn 100 lạng vàng, rồi đi qua Mãn Lạt Gia bán hết hàng hóa để trở về. Nghĩa chết trên đường vượt biển. Cấn trình sự việc và nạp sắc ngụy lên triều đình. Bộ Lễ hạc tội Cấn tự tiện phong tước; đáng tội hình, bèn ra lệnh giam tại vệ Cấm Y để điều tra, biết được lời khai như trên. Quan tòa kết vào tội đại thần tự tiện tuyển quan, xử chém. Lúc bấy giờ sứ giả Chiêm Thành Cáp Na Ba tại quán dịch bộ Lễ, trả lời qua thông dịch rằng Cổ Lai chính là em của vương. Tề Á Ma Vật Am chết vì bệnh không phải bị giết, người được gọi là Đề Bà Đài Gỉa thì không biết đó là ai. Bèn ra lệnh Cáp Na Ba tạm trở về Quảng Đông. Lệnh quan chức địa phương lấy lễ ưu đãi. Đợi sứ tạ ơn của Đề Bà Đài Gỉa đến; thẩm xét phải trái rồi có cách đối xử riêng.”

-23/4TH18(10-5-1482). Thực lục viết nói Hành Nhân Vương Miễn bị giam vào ng




-9/5TH15(29-5-1479). Thực lục viết: ”Tá phó ty Hành Nhân Trương Cấn mang chiếu thư 


Thứ Năm, 17 tháng 7, 2025

Minh Thực Lục

 

MINH THỤC LUC

Tập 3. NXB Hà Nội. Hồ Bạch Thảo dịch.

-19/8Thiên Thuận 4(3-9-1460). Thực lục viết: “Ban cho sứ thần Chiêm Thành Cừu Biệt Đà Phát; người trong họ của quốc vương Thả Dật Đà Bằng mũ sa, dây deo bằng vàng; bọn phó sứ Cửu Thôn Tái, Tống quân Như Y Nam mũ sa, dây đeo bạc; bọn Xá nhân như bọn Cơ Sái Bàn Ma mũ sa dây đeo có sừng đen

-13/9 TH4(27-9-1460). ThỰC lục viết: “Chiếu dụ nước Chiêm Thành: “Từ xưa đến nay cac đế vương ngự trị thiên hạ, không ai là không cư xử chung với một lòng nhân; vì vậy chốn hoang vu cõi ngòi được phổ cập gió hóa. Nước Chiêm Thành các ngươi, vị trí nơi góc biển hoang tịch, đất riêng một phương tất phải lập người đứng đầu đê thống trị dân chúng. Bỡi vậy quốc vương quốc vương Ma Ha bàn La Duyệt mới đây được phong tước vương, nối nghiệp quản lý việc nước, chưa được 4 năm đã vội mất, cái lý kế thừa không thể thiếu. Người em là Bàn La Trà Toàn, tính tình đôn hậu, biết giữ lễ khiêm cung; nên đặc cách sai cấp sự trung VươngNhữ Lâm làm chánh sứ, Hành nhân Lưu Thử làm phó sứ mang chiếu thư phong cức quốc vương Chiêm Thành. Phàm dân chúng trong nước đều phải tuân phục, tuân theo lẽ phải mà sống yên ổn, không được tranh dành phạm pháp. Tất cả một lòng giúp rập, khiến đất nước hòa bình anh ninh, thấm nhuần phong tục nhân hậu, vĩnh viễn hưởng phúc thái bình.” Lại sắc dụ Bàn La Trà Toàn rằng: “Vương ccs ngươi đời trước, có nước nơi góc biển xa xôi, hết lòng trung kính thuận theo trời thờ nước lớn, càng lâu càng bền. Nay vương lại biết thừa kế, ai người trong họ là Thả Dật Đà Bằng mang sản vaath địa phương đến cống, lòng thành khẩn đáng khen. Sứ trở về đặc cách ban cho vương cùng vương phi gấm lụa để đáp laijys tốt; vương càng kiên dịnh, giữ tiết bề tôi, để đáp ứng ưu đãi” ”tr69

HIẾN TÔNG THỰC LỤC

-5/3 TH8(11-4-1464) Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn sai sư thần dâng biểu viết trên vàng lá, cống voi thuần và các sản vật địa phương

-7/3 Thiên Thuận thứ 8(13-4-1464). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn sai sứ tâu rằng nước An Nam xâm lăng quấy nhiễu để đòi hỏi voi trắng. Xin căn cứ theo việc làm thời Vĩnh Lạc cử sứ giả đến chiêu an, lập bia đá tại biên giới đê khỏi phải xâm phạm; chấm dứt thù hằn gây hấn. Lời xin được đưa xuống bộ Binh bàn, rồi phúc tấu: “Xin thông sự báo sứ thần trở về nói với quốc vương rằng hãy cẩn thận giữ lễ pháp, giữ vững biên cảnh chống lại ngoại xâm, đừng nông nổi gây họa.” Hoàng Thượng chấp thuận

-11/9 TH3(8-10-1467) Thực lục viết: “Ngày Qúi Dậu, Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Duyệt sai sứ thần Xú Lặc cống voi cùng sản vật địa Phương

-Trang 83. Ngày 4/10 năm Thành Hòa thứ 5(TH5). Tức 7/11/1469. Thực lục viết nói Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Duyệt(Toàn) sai bọn sứ thần Bố Sa Phạ Bà La Thủy dâng biểu triều cống voi và sản vật địa phương.

-27/Một TH5(30-12-1469): thực lục viết nói  bọn phó sứ A Ly nước Chiêm Thành tâu xin cấp khăn đội đầu.

-27/5 TH7(15-6-1471) thực lục viết nói  quốc vương An Nam Lê Hạo sai bọn Bồi thần Quách Đình Bảo Nguyễn Đình Anh đến triều tâu “thời Tuyên Đức 4 châu Thăng Hoa Tư nghĩa bị mất. Châu Hóa bị vây mấy lần thần muốn đánh dẹp lại sợ lời dạy bảo của thánh Thiên Tử…”Thực lục viết tiếp nói bản tấu được đưa xuống bộ binh bàn rồi tấu lên: “Lòng tham của Lê Hạo không cùng âm mưu thôn tính lại dương ngôn là nạn nhân. Xin ban sắc văn để ngăn ngừa sự gian trá.” Thực lục viết nói sắc của Hoàng Thượng: “An Nam ngươi và Chiêm Thành đều được triều đình ban tước và đất, đời đời nạp cống làm phiên thần TQ nơi biên giới há lại gây oán hưng binh đánh lẫn nhau. Sách Xuân Thu nêu trách nhiệm người hiền phải yên phận, thuận theo lý, giữ lãnh thổ, bỏ oán thù, dập tắt tranh giành. Ngươi trước hết phải làm trọn đạo hòa mục với lân ban và cấm đoán bọn đầu mục không sinh sự gây hấn. Nếu như có mưu kế thôn tính thì không phải là phước cho ngươi, nên cẩn thận, cẩn thận! Về phần Chiêm Thành đợi khi sứ nước này đến, xét kỹ sự thực, sẽ có sắc ngăn ngừa. Trẫm thay trời cai trị vạn vật đối xử chung một lòng nhân, không nỡ để 2 nước các ngươi vương vào họa binh đao; nên đặc biệt ra chỉ dụ khuyên răn để hiểu thịsự lo lắng..

-9/9 TH7(26-6-1471). Thực lục viết nói ban cho bọn Bồi thần Nguyễn Đình Anh yến và các loại lụa. Thực lục viết “Khi Đình Anh trở về, ban sắc cho Lê Hạo nội dung cấm người trong nước không được vượt biên cảnh cướp phá.”

KĐVS viết việc năm 1471, tháng 9 nói sai sứ sang nhà Minh. Sách dẫn Sách Bang giao bị lãm của Giáp Trưng chép nói tháng 10 năm 1471, Lê Thánh Tông sai bọn Nguyễn Đức Trinh và Phạm Mục sang báo cáo với nhà Minh, đại lược trong lời tâu nói: "Tháng 8 năm ngoái, vua nước Chiêm Thành đem quân đánh úp đất Hóa Châu nước tôi, tôi thân hành đem người trong nước đi cứu viện Hóa Châu. Tháng 5 năm nay, vua Chiêm Thành lại bắt hơn 10 vạn quân vây hãm tôi mấy trùng; trong lúc nguy cấp, tôi phải phá vòng vây để đón đánh lại. Người nước Chiêm vẫn oán giận họ, không còn có chí chiến đấu, cùng nhau người thì phản lại, người thì bỏ trốn. Quân tuần tiễu của tôi kéo đến quốc đô nước ấy, thì dân chúng nước ấy không giúp rập vua, nên người bỏ binh khí chạy trốn, người quay giáo đầu hàng, vua Chiêm Thành đem quân đi về phương nam, tôi thấy thế, liền đem quân về nước giữ vững cảnh thổ cũ nước mình. Tôi trộm nghĩ: Chiêm Thành xưa nay vẫn thù địch với nước tôi, nay lại đem quân đến đánh úp cướp bóc, tôi bất đắc dĩ phải mạn phép tập hợp binh sĩ để ứng phó, trong lúc vội vàng chỉ muốn gỡ mối lo nhiễu nhương ở nơi biên quận. Làm như thế, cũng e rằng trái với lời ân cần răn bảo của bậc thánh minh, tôi rất lấy làm lo sợ. Bây giờ việc tiến lui của tôi chỉ xin theo mệnh lệnh thiên triều định đoạt" MTL đăng việc đi sứ của Nguyễn Đức Trinh vào năm sau, tức năm 1472

-21/5TH8(27-6-1472)thực lục viết nói nước Chiêm Thành sai sứ Lạc Sa đến cấp báo rằng “nước chúng tôi tiếp giáp với An Nam mấy lần bị nước này xâm đoạt. Mới đây vài người đến đòi sừng tê giác, ngà voi, đồ vật quí, lại đòi hỏi phải phụng sự người An Nam đưa đến nghi lễ giống như phụng sự sứ thần Thiên Triều. Nước chúng tôi nghĩ rằng đã cùng nước An Nam nhận lịch Chính Sóc của Hoàng Triều nên không chịu khuất tuân theo vì lý do đó nên An Nam gây hấn. Vào tháng 2 TH7 quan An Nam đến đánh phá kinh thành bắt được quốc vương Bàn La Trà Toàn cùng gia thuộc hơn 50 người, tịch thu ấn quí, phá hủy nhà cữa, cướp giết quân dân nam nữ nhiều không kể xiết. Nay em của vương là Bàn La Trà Duyệt tạm thời coi việc nước. Cúi xin phân xử. ” Thực lục viết tiếp nói tờ tấu gửi xuống dưới. Thượng thư bộ Binh tấu lên nói năm TH7 An Nam tâu Chiêm Thành vượt biên giới xâm lăng. Cần ngăn cản sự tàn ngược. Bọn thần tâu rằng Lê Hạo có âm mưu thôn tính Chiêm Thành. Thực lục viết tiếp nói An Nam mấy lần đánh phá Chiêm Thành, bắt vua nước này nên không có cách xử trí thì mất lòng qui phụ của Chiêm Thành, dung dưỡng kẻ ngang ngạnh. Nên sai quan mang sắc dụ, bắt phải trả lại ấn tín, quốc vương cùng gia quyến bị bắt. Thực lục viết tiếp nói chỉ dụ phán “Bắt phải sai quan đi, đợi sứ thần An Nam đến sẽ trao sắc dụ.

-22/6 TH8(27-7-1472). Thực lục viết nói phong cho Bàn La Trà Duyệt, em cố quốc vương Bàn La Trà Toàn kế lập chức quốc vương Chiêm Thành. Thực lục viết nói Bàn La Trà Toàn bị An Nam bắt, ấn tín bị lấy mất. Nay em là Bàn La Trà Duyệt tạm thời trông coi việc nước tâu xin phong tước, cấp ấn tín. Bộ Lễ tâu xin theo lệ sai quan đến phong thế tử Ma Ha Bi Cai để làm vẻ vang cho lời xin. Được chấp nhận, Hữu cấp sự trung khoa công Trần Lăng, hành nhân Lý Sang thuộc ty Hành Nhân đến phong.

-5/9 TH8(6-10-1472). Thực lục viết nói sứ thần Lại Sa Lộng Chiêm Thành đến cống.

-6/9 TH8(7-10-1472) Bồi thần Bùi Viết Lương đến cống.

-13/9TH8(14-10-1472) thực lục viết nói sắc dụ Lê Hạo chớ xâm vượt lãnh thổ Chiêm Thành. Hạo sai Nguyễn Đức Trinh dâng thư tự trình bày nói Chiêm Thành xâm lấn Hóa Châu. Gởi binh tiếp viện. Chiêm Thành làm phản nên bị thua. Thực lục viết tiếp nói Hoàng Thượng sai Đức Trinh mang sắc dụ Lê Hạo. Dụ nói là Chiêm Thành tâu tháng 2 TH7 Hạo đánh phá bắt quốc vương thân thuộc hơn 50 người, cướp ấn, đốt nhà cữa, giết người già trẻ em không kể xiết. Hoàng Đế cho rằng lời riêng không tin được. Nay nhân được tâu, lời ý đều khác. Dụ có đoạn” “nhưng nước  vương với Chiêm Thành thế lực lớn nhỏ không cần phải biện thuyết. Nếu bọn họ gây hấn trước, thì thật không biết độ đức lượng sức nên gây ra sự bất nghĩa; nếu vương vin vào việc họ quấy phá nhỏ, rồi giận lên hiếp kẻ yếu gây hấn lớn thì hợp với dạo nghĩa ư! Khi sắc đến  vương nên bỏ qua những mất mát nhỏtăng điều đại nghĩa, trả lại những người bị bắt, răn đe quan lại nơi biên giới đừng sinh sự lập công, hưng binh gây oán hoặc chyên việc báo thù gây nên sự đau buồn, ngỏ hầu trời soi sáng, vĩnh viễn hưởng danh thơm. Khâm thử!”

-14/12TH10(21-1-1475). Thực lục viết “Hữu cấp sự trung khoa Công Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại thứ đã mang đi như chiếu  sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho quốc vương Bàn La Trà Duyệt, khi hàng hải đến cảng Tân Châu Chiêm Thành, quân phòng thủ từ chối không cho vào, người thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm còn quốc vương Chiêm Thành tị nạn tại Linh Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành đổi tên thành châu Nam Giao. Bọn Tuấn không dám ghé vào; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân nên giả lấy cớ bị gió bão rồi đi tiếp đến Mãn Lạt Gia. Buôn bán, lại dụ vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành , cùng việc quốc vương Mãn Lạt Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy đủ.” Thực lục viết tiếp nói việc được đưa xuống cơ quan hữu trách. Bộ Lễ tâu nói nên đợi sứ Mãn Lạt Gia nhập cống. Lúc trở về giáng sắc khen thưởng vương nước này. Bộ Binh tâu nói An Nam cậy mạnh thôn tính nước được triều đình phong tước. Việc quan hệ không nhỏ. Nên bàn luận rộng rãi. Bọn Anh Quốc Công Trương Mậu tâu hài tội thảo phạt. Nay chưa biết được nguyên do Chiêm Thành diệt vong, không nên kinh động. Chờ năm sau vào kỳ An Nam triều cống.

-6/5 TH11(9-6-1475). Thực lục viết nói sứ Mãn Lạt Gia vào triều cống lúc trở về ban thưởng cho vương nước này về chuyện năm trước giúp đỡ bọn quan cấp sự trung đến Chiêm Thành bị trôi dạt. Thực lục có đoạn “nước Mãn Lạt Gia sai chánh phó sứ bọn Đoan Mã Mật dâng biểu viết trên vàng lá, cùng các vật như voi, ngựa, Hóa Kê, vẹt trắng,  báo, tiền vàng.” Sách dịch chú thích Hóa Kê là casowary là đà điểu đầu mèo phân bố ở Papua New Guinea, Australia. Ghi chú số 1997 ĐVSK bảng điện tử nói Lạt Gia là Mãn Lạc Gia, tức là Malacca.

-25/8TH11(24-9-1475)Thực lục đăng lời tâu của Lê Hạo:”Năm trước nhân quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị người em là Bàn La Trà Tọai giết. Toại tự lập lên làm vua, sắp xin cầu phong; lại bị con Bàn La Trà Duyệt là Trà Chất Đài Lai giết, từ đó nước trong nước này loạn lạc nổi lên, không có một ngày yên ổn. Việc đó không phải là lỗi của nước thần. Nay tuân theo chỉ dụ của Thiên Tử dẹp binh đao, hòa mục với lân bang; số người nước này bị bắt gồm 740 trai gái đều cho trở về nước.”Thưc lục viết tiếp nói lời tâu đưa xuống. Bộ Binh trình nói lời của Lê Hạo sơ lược không nói đến việc xâm chiếm Chiêm Thành, không giống lời tâu của bọn Hữu Cấp sự trung Trần Tuấn. Thực gian không quyết được. Thực lục đăng sắc dụ của Hoàng Thượng ban cho Bồi thần Lê Hoằng Dục vào triều cống ngày 21/8TH11(20-9-1475) khi về nước mang sắc dụ Lê Hạo:“ Trước đây nhân Bàn La Trà Duyệt tâu rằng vương nước này là Bàn La Trà Toàn bị nước ngươi bắt, Chiêm Thành hiện nay không có chủ  nên đến xin phong tước. Trẫm thể theo đức hiếu sinh của trời đất chấp nhận lời trần tình sai sứ đến phong. Đến lúc sứ về tâu rằng đất nước Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm đoạt, đổi thành châu ấp. Trẫm nghi nhưng chưa tin, nay được ngươi tâu rõ ràng  rằng Chiêm Thành dùng binh gây oánxâm nhiễu biên cảnh lân bang, đến nổi bản thân chết, nước bị phá; tất cả đều tự gây ra. Sự việc chưa rõ ràng nhưng lý có thể như vậy; huống lời và ý của vương khẩn khoản, chắc không phải dùng lời lẽ để che dấu lỗi lầm. Nhưng Chiêm Thành là nước truyền từ lâu đời, trước kia há không có một lực lượng nào mạnh có sức thôn tính nước này, nhưng sử sách chưa từng nghe,  vậy bài học được mất có thể thấy được. Nay nếu  nước này thình lình bị tiêu diệt, không những trái với chiếu chỉ của triều đình; mà còn e  bị các nước phiên tại hải ngoại sinh sợ, rồi gây sự tranh giành, như vậy đối với vương có lợi ư!. Sắc đến vương nên sửa đổi, cho người trong họ vua Chiêm cùng dân chúng trở về, khôi phục đất đai để cho không tuyệt nòi giống. Làm được vậy thì việc nối dòng bị đứt(sách dịch thiếu chữ “không”?), kính trời thờ nước lớn của vương vẹn cả hai đường. Vương hãy gắng cho được

ĐVSK Tháng 10-1474: Bọn sứ Lê Hoằng Dục, nguyễn Đôn Phục, Ngô Lôi đi nộp cống. Nghiêm Nhân Thọ, Nguyễn Đình Mỹ tâu việc Chiêm Thành tan vỡ quấy nhiễu biên giới.

ĐVS: 1476 tháng 10, sứ mừng lập Hoàng Thái Tử Lê Tiến. Nguyễn Tế tâu việc địa phương ChiêmThành.

-26/3TH14(28-4-1478). Thực lục đăng lời tâu của Lê Hạo:”Đầu mục Chiêm Thành Ba Lung Ma Ha trước đây thông hiếu với nước thần. Vào năm Thành Hòa thư 11 nước y thu hoạch được nhiều thuyền của nước Lưu Cầu do gió thổi trôi dạt đến; bèn mang quân đến nước thần xâm lược; bị quân tại biên giới đánh bại. Nay bồi thần Lê Hoằng Dục từ Thiên Triều trở về dâng đặc dụ trách thần chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành đổi thành châu ấp. Vì việc này, thần không thể không lọc máu viết lời trần tình để đoan chắc rằng không có. Phàm đất đai mà Chiêm Thành được phong rất cằn cỗi, nhà thì nghèo nàn, vườn không có tơ dâu, núi không có của báu, biển thiếu lợi về cá muối; chỉ có ngà voi, sừng tê giác, tô mộc, trầm hương mà thôi; mà nước thần sản xuất những thứ đó nhiều, nên không cho là quí. Lấy được đất đó không thể ở được, lấy được dân đó không dùng được, được sản phẩm đó không đủ để giàu, được cái thế đó cũng không trở nên mạnh được. Giữ gìn đất đó rất khó, mà lợi thì ít. Phàm mất nhiều mà lợi thì ít, họa thì rõ ràng, mà danh thì mờ mịt; đó là lý do tại sao thần không chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành để biến thành châu quận. Nay triều đình lại dụ thần trả lại đất đai cho Chiêm Thành để nước đó không mất chỗ thừa tự. Thành thực thần cho rằng Thiên sứ trong lúc vội vã hỏi han điều tra không rõ ràng; mà dân Chiêm Thành chạy loạn thì có mối thù nước thần nên lời nói không đáng tin. Vậy xin đặc sai sứ giả Thiên triều đích thân đến xem đất đai và phục hưng dòng bị tuyệt khiến cho nước Chiêm Thành trên dưới được an tập; nơi biên thùy của thần cũng được yên ổn để làm nước phiên của Trung Quốc, có ích cho người phương xa, đó là ý nguyện của thần vậy. Kính cẩn sai Bồi thần Nguyễn Đạt Tế tâu lên”Thực lục viết nói hoàng Thượng mệnh đem tấu chương này xuống dưới bàn luận.

-24/4TH14(25-5-1478)bồi thần Bùi Sơn samg mừng lập Hoàng Thái Tử.

-3/5TH14(3-6-1478) Bùi Sơn trở về xin sai quan hộ tống đến phủ Nam Ninh vì sứ than bị quan địa phương hay sách nhiễu.

-30/7TH14(27-8-1478) Thực lục viết: ”Quốc vương Chiêm Thành sai người chú Ba La Á Đệ cùng bọn sứ thần La Tử đến dâng biểu viết trên vàng lá và triều cống sản vật địa phương.

-6/8TH14(2-9-1478) Thực lục viết: ”sai Cấp sự trung khoa Lê Phùng Nghĩa, Hành Nhân Trương Cẩn mang chiếu chỉ phong cho Tế Á Ma Vật Am  làm quốc vương Chiêm Thành . Tế Á Ma Vật Am sai người tâu rằng người An Nam trả lại một cõi đất phía Nam để cai quản và làm chủ nước này nhưng sợ uy trời không dám tự tiện chủ trì, bèn sai sứ tâu trình và xin phong . Bỡi vậy mới có mệnh này. Ghi chú của sách dịch nói Tề Á Ma Vật Am Minh sử chép là Trai Á Ma Phất Am ĐN LT chép giống Minh Sử. Việt Sử Thông Giám Cương Mục Khảo Lược  chép là Tề Á Ma Phất Yêm.

-9/5TH15(29-5-1479). Thực lục viết: ”Tá phó ty Hành Nhân Trương Cấn mang chiếu thư đến phong cho quốc vương Chiêm Thành . qua huyện Thanh Giang, Giang Tây gặp sóng gió phá hư thuyền , chiếu thư và đồ vật đều bị hư ướt. Quan thủ thần trình lên. Bộ Lễ tâu bàn rằng “Chiếu thư và lễ vật nên thay mới , riêng sai hành nhân đưa đến cho Cẩn; những vật khác không cần lấy ra từ kho trong triều, lệnh ty Bố Chính Quảng Đông cho chế ra giống y như vậy. Lại bảo rằng “tờ tấu không có tên họ viên chánh sứ; lệnh tuần án Giang tây, ngự sử xét sự thực trình lên” Hoàng Thượng chấp nhận 

-9/6TH17(5-7-1481). Viết việc An Nam đánh Cầm Công ở Lão Qua. Lời tâu của Mộc Tông ở Vân Nam có đoạn: “Hạo trước kia đã thôn tính Chiêm Thành ; Hoàng Thượng bỏ qua, ban cho sự khoan dung, mong rằng biết hối tội. Nhưng Hạo lại buông tuồng theo điều ác không kiêng kỳ

-21/9TH17(13-10-1481) Thực lục viết”Ngày Nhâm Thìn, Cổ Lai nước Chiêm Thành sai cháu vương là Cap Na Ba dâng biểu cống voi, cọp, sản vật địa phương, cùng thỉnh phong. Ban cho áo dệt kim, các vật như lụa màu, đoạn có sai biệt

-22/9TH17(14-10-1481) Thực lục viết: Thượng thư bộ Binh Trần Việt tâu: “Nước An Am cách vạn dặm tại nơi u tịch Tây Nam, tiếp giáp với Vân Nam Lưỡng Quảng. Vào năm Vĩnh Lạc vương sư chinh phạt, chia đất này thành quận huyện. Sau đó thủ thần chế ngự không được, lại bị mất trở lại. Nay đâm ra ngỗ ngược làm càn, phía Đông nuốt Chiêm Thành, phía Tây  thôn tính nước Lão Qua, đánh phá Bát Bách, ban sắc ngụy cho ty tuyên ủy Xá Lý, giết Mãn Lạt Gia sứ thần; sự việc không thể không đáng lo. Năm trước có người tại biên giới từ An Nam trở về nói vương nước này muốn xâm phạm Vân Nam. Nhưng mẹ vương đã can gián nên dừng lại. Ngự sử Vương Thứ tâu rằng An Nam sai những tên ngụy, giả làm thương nhân đến dò thám hư thực; lại  nghe rằng có người Giang Tây họ Vương  theo  bọn vong mệnh làm ngự sử ngụy, trù liệu sách lược, đôn đốc binh; mấy lần xâm nhiễu, vị tất không do mưu của tên này? Sứ thần Chiêm Thành cũng nói rằng An Nam sửa soạn 3.000 chiếc chiến thuyền, muốn tập kích Hải Nam; không thể không phòng bị.Thiên Tử phán: “Trẫm lấy lễ ngoại quốc mà đối xử với An Nam; mỗi lần vi phạm lại tỏ sự dung thứ. Nhưng nước này bên ngoài thì tỏ ra cung kính, nhưng trong trí trá, hành động của chúng không thể che dấu được. Binh pháp nói rằng ”Đừng cho rằng kẻ thù không đến, phải dựa vào sự phòng bị”nên ra lệnh thủ thần Vân Nam, Lưỡng Quảng nghiêm cấm bọn vong mệnh vượt biên giới, nếu chúng xâm phạm thì huy động quân lính chống cự

-26-9/TH17(18-10-1481). Thực lục viết nói chiếu dụ Lê Hạo trả lại đất cho Chiêm Thành. Bấy giờ Cổ Lai nước Chiêm Thành sai sứ tâu: “Vào tháng tư năm Thiên Thuận thứ 5 Giao Chỉ hưng binh xâm lăng nước thần, bắt quốc vương, phá thành trì, cướp ấn quí rồi đi. Em vương là Bàn La Trà Duyệt trốn chạy đến Phật Linh Sơn. Vào năm Thành Hòa thứ 6 tấu xin ấn và thỉnh phong. Thiên sứ đến nơi nhưng trước đó Bàn La Trà Duyệt đã bị Giao Chỉ bắt. Thần cùng anh là Tề Á Ma Phất Am trốn trong rừng; sau đó người Giao sợ Thiên Triều, tự sai người tìm kiếm  con cháu người nước thần, cho trở về đất cũ. Giới hạn từ quốc đô tới Chiêm Lạp gồm 5 xứ, lập Tề Á Ma Vật Am làm vương. Chẳng bao lâu Tề Á Ma Vật Am chết, nay thần đang tạm giữ chức nhưng không dám tự tiện; thỉnh cầu triều đình sai Thiên sứ mang ấn quí đến, phong chức vương. Xin dụ người Giao trả toàn lãnh thổ nước thần gồm 27 xứ gồm 4 phủ, một châu, 22 huyện; phía Đông tới biển Đông, phía Nam tới Chiêm Lạp, phía Tây tới núi Lê Nhân, phía Bắc tới A Mộc Thử Bô gồm hơn 3.500 dặm, ngưỡng ơn Thiên Tửvì tiểu quốc chủ trì việc này.”Sách dịch chú giải nói sứ Chiêm sai lầm năm tháng. Dẫn Toàn Thư nói việc đánh bắt trà Toàn vào năm TH7(1471) không phải Thiên Thuận 5. Dẫn Minh Thực Lục thực lục đề ngày 27-6-1472 cũng nói việc đánh bắt Trà Toàn vào năm TH7. Việc sứ đến phong không được xảy ra năm TH10(1475) không phải TH6(1470). Thực lục viết tiếp nói hội các quan bàn định. Thượng thư bộ Lại Duẫn Mân bàn:”Chiêm Thành bị An Nam xâm đoạt đã lâu, triều đình thường răn dụ, An Nam chỉ trả lại 5 xứ. Nay Cổ Lai không ngại xa xôi đến tố cáo , nếu không chấp nhận lời xin, thì không có gì an ủi người xa xôi có lòng ngưỡng vọng. Nên sai 2 cận thần có uy vọng, giỏi về văn từ lý lẽ, đi sứ An Nam , dụ vương nước này trả lại đất cũ của Chiêm Thành” Thực lục viết tiếp: “Chiếu dụ rằng không cần sai quan đi. Vừa lúc sứ thần An Nam trở về, bèn sắc dụ Hạo.” Dụ rằng: “Trẫm phụng mệnh trời, coi dân như con, suốt biển trong ngoài đều đối xử chung một lòng nhân. Mà các ngươi An Nam và Chiêm Thành thời Tần Hán trở xuống đều là quận huyện của Trung Quốc; cũng không quá xa kinh đô. Mới đây Chiêm Thành tố cáo ngươi hưng binh bắt sống quốc vương nước này, giết nhân dân, đoạt thành trì đất đai. Trẫm động lòng trắc ẩn, hai lần xuống chiếu lệnh ngươi trả lại những thứ đã lấy  để hợp với nghĩa lớn. Ngươi tâu rằng số đàn ông đàn bà bị bắt đã trở về, lại nói lãnh thổ đã yên, há lại có việc xâm tranh. Trẫm tin lời ngươi, không nghi ngờ. Nay Cổ Lai sai người đến thỉnh phong, hỏi lý do mới biết rằng đất này bị nước ngươi chiếm cứ, số lượng trả lại chỉ bằng 1/5. Xét việc này thì ra ngươi âm mưu thôn tính nhưng bề ngoài nói rằng hòa mục lân bang, thực hiện việc đại nghĩa; phải như vậy chăng? Trẫm sở dĩ một mực sắc dụ ngươi, không phải có ý tư vị Chiêm Thành; muốn ngươi thể theo trẫm, đối xử cùng một lòng nhân, hòa mục lân bang, thương xót nhân dân, đó là phúc cho 2 nước. Nếu không thèm nghe, không thèm biết, há không xem đến việc đời trước Chiêm Thành phục thù nước ngươi ư! Hãy soi kỹ việc này, những người già cả tại nước ngươi chắc còn nhớ điều đó, đáng xét và suy nghĩ. Người xưa nói rằng một nước có đạo lý cậy đức chứ không cậy sức. Người từ khi thụ phong đến nay không chỉ xâm đoạt Chiêm Thành, mới đây giết sứ thần tiến cống của Mãn Lạt Gia, xâm đen bọn tùy tùng bắt làm nô bộc; gây oán với lân quốc; họ không tố đến nơi, ngươi tự cho là phúc đấy ư! Phàm sợ trời giữ nước, sợ kẻ lớn thương người nhỏ; các bậc hiền triết đều làm, sao ngươi không lo làm việc đó. Khi sắc tới ngươi nên nghĩ đến việc đoàn kết, hữu nghị với lân quốc, trả hết đất đai cũ cho Chiêm Thành, đời đời nối dõi, không đến nỗi tự tuyệt; không những sinh linh 2 nước không bị vướng vào họa binh đao, mà tiếng tốt của ngươi được để lại trong sử sách, con cháu mãi mãi hưởng ân trạch vô cùng. Hãy thực hành kỹ việc này, đừng để hối hận về sau

-15/10TH17(6-11-1481). Thực lục viết nói Hành nhân Trương Cấn đi sứ Chiêm Thành mắc tội bị hạ ngục. Thực lục viết tiếp: “Trước đó Cấn cùng Cấp Sự Phùng Nghĩa phụng mệnh mang sắc ấn phong vương cho cháu quốc vương Chiêm ThànhTề Á Ma Vật Am. Bọn chúng mang nhiều hàng hóa để bán kiếm lời; khi đến Quảng Đông nghe Tề Á Ma Vật Am chết, người em là Cổ Lai sai bọn Cáp Na Ba đến xin phong. Nghĩ rằng về không sẽ mất lời, bèn đi vội đến Chiêm Thành. Người Chiêm Thành cho biết sau khi người cháu xin phong bị Cổ Lai giết. An Nam ban sắc ngụy lập Đề Bà Đài Gỉa nắm quyền quốc sự. Bọn Cấn không đợi mệnh của triều đình, mang ấn trao cho Đề Bà Đài Gia, phong làm vương. Bọn chúng được hối lộ hơn 100 lạng vàng, rồi đi qua Mãn Lạt Gia bán hết hàng hóa để trở về. Nghĩa chết trên đường vượt biển. Cấn trình sự việc và nạp sắc ngụy lên triều đình. Bộ Lễ hạc tội Cấn tự tiện phong tước; đáng tội hình, bèn ra lệnh giam tại vệ Cấm Y để điều tra, biết được lời khai như trên. Quan tòa kết vào tội đại thần tự tiện tuyển quan, xử chém. Lúc bấy giờ sứ giả Chiêm Thành Cáp Na Ba tại quán dịch bộ Lễ, trả lời qua thông dịch rằng Cổ Lai chính là em của vương. Tề Á Ma Vật Am chết vì bệnh không phải bị giết, người được gọi là Đề Bà Đài Gỉa thì không biết đó là ai. Bèn ra lệnh Cáp Na Ba tạm trở về Quảng Đông. Lệnh quan chức địa phương lấy lễ ưu đãi. Đợi sứ tạ ơn của Đề Bà Đài Gỉa đến; thẩm xét phải trái rồi có cách đối xử riêng.”

-23/4TH18(10-5-1482). Thực lục viết nói Hành Nhân Vương Miễn bị giam vào ngục vì tội muốn gây hấn ở biên thùy để lợi dụng.trước đó Miễn tâu Lê Hạo không chịu thuần phục, tiếm xưng niên hiệu, tự tiện đi chinh phạt; xin mang binh đến trừng phạt.

-16/9TH18(27-10-1482). Thực lục viết nói cấp thuyền cho sứ A La Sa của Cổ Lai nước Chiêm Thành về nước. Thục lục viết tiếp: “Bọn A La Sa trú tại Quảng Đông đê đợi sứ thần Đề Bà Đài đến tạ ân, để đối chứng việc Trương Cấn tự tiện phong tước. Đợi đã hơn 1 năm, lại không chịu được rét nên trình lên Giám Sát Ngự sử Vương Biện, rồi viên này tâu lên, bộ Lễ lại tâu tiếp. Lệnh cho tạm trở về nước này, đợi khi Đề Bà Đài sai người đến tạ ơn, lại đến kinh đô để đối mặt làm chứng; nên có lệnh này.” 

-18 tháng Chạp TH19(16-1-1484) Thục lục viết nói quốc vương An Nam giúp sứ đi sang nước Mãn Lạt Gia trôi dạt.

-20/6TH20(12-7-1484) Thục lục viết nói tha tội cho Hữu Đô Ngự Sử Lý Dụ và hữu Phó Dô ngự Sư Đồ Dung đã nhận tội để Trương Cấn ở trong ngục chờ sứ Chiêm đến để đối chất biết tin có sứ Chiêm Thành tới cho người nhà đánh trống kêu oan.

-7/7TH20(28-7-1484). Thực lục viết: “Sắc dụ quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai hãy phủ dụ Đề Bà Đài; lệnh nạp ấn quốc vương Chiêm Thành trước kia trao cho y. Tha tội cho Đề Bà Đài đã nhận sắc phong ngụy của An Nam; lệnh cho làm đầu mục của nước này.

-5-8TH20(25-8-1484). Thực lục viết: “ngày Kỷ Mùi ban cho người Đề Bà Đài sai đến gồm bọn cháu là Ba La Chất, Phó Sứ Man Đê, Đại Thông Sự Mai Gỉa Lượng, lụa màu, đoạn có sai biệt. Trước đó đầu mục Đề Bà Đài được  phong nhầm làm quốc vương, sai bọn Ba La Chất đến tạ ơn, biếu văn và sản vật địa phương đã được lệnh trả lại bọn Ba La Chất. {Bọn sứ giả} dâng biểu trình rằng cô độc, nghèo, xin ban cho y phục. Bộ Lễ tâu rằng kẻ từ hải ngoại xa xôi đến, xin xét được gia ơn. Thiên Tử chấp nhận”

-17/8th20(6-9-1484). Thực lục viết nói sai Lý Mãnh Dương sung chánh sứ, Diệp Ứng sung phó sứmang chiếu thư cùng lễ vật phong cho em quốc vương Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Am  là Cổ Lai làm quốc vương. Bọn Mãnh Dương tâu: “Chiêm Thành bị Đề Bà Đài chiếm cứ lâu rồi, vậy trước khi làm lễ phong nên cho sứ giả của Đề Bà Đài về nước, loan báo việc triều đình định phong cho Cổ Lai để dân chúng yên lòng;  người cháu của vương cũ do Đề Bà Đài đưa đến tạ ơn, rồi bị lưu lại làm con tin tại Quảng Đông cũng nên cho về luôn. Bọn thần định khi thuyền làm xong, thuận gió, sẽ đến nơi Cổ Lai trú đóng để truyền đọc sắc văn.Hoàng Thượng họp đình thần bàn bạc và chấp thuận.”

-17/8TH20(6-9-1484). Thực lục viết nói Lê Đức Khánh sang cống

-5/10th20(24-10-1484). Thực lục viết nói tha cho Trương Cấn tội chết, đày làm lính thú tại vệ biên giới thuộc Quảng Tây. Cấn đã đi sứ Chiêm Thành tự tiện phong Đề Bà Đài làm quốc vương.

-3 tháng ChạpTH21(8-1-1486). Thực lục viết “Thăng cấp sự trung khoa Lễ Lý Mãnh Dương chức Đô cấp sự trung thuộc khoa này. Trước đó Mãnh Dương phụng mệnh sự đi sứ Chiêm Thành, nhưng chưa đi, trú tại Quảng Đông. Bị tật xin ở nội địa trị bệnh, chờ lành sẽ đi Chiêm Thành. Lại trình rằng sắp hết hạn 9 năm, ý không muốn đi. Nhận chiếu chỉ cứ ở lại Quảng Đông, đến nay đã mãn trật 9 năm , nên có mệnh này.

-12 tháng Một TH22(7-12-1486). Thực lục viết nói Giám Sát Ngự Sử Tuần Án Quảng Đông Từ Đồng Ái tâu: “Con quốc vương Chiêm Thành  Cổ Lai đánh giết ngụy vương Đề Bà Đài do Giao Chỉ đặt lên. Giao Chỉ giận, mamg binh đến biên giới đòi cho được mạng sống của Đề Bà Đài. Cổ Lai sợ hãi, mang vương phi, cháu vương, bộ lạc hơn 1.000 người, cùng sản vật địa phương vượt biển đến châu Nhai, Quảng Đông.” Thực lục viết tiếp nói  việc đưa xuống bộ Lễ bàn rồi Hoàng Thượng phán: Cổ Lai trong lúc tàn bại, còn chút hơi thừa, vượt qua vạn dặm, mang quyến thuộc đến qui phụ Trung Quốc; tình cũng đáng thương. Nay lệnh cho các quan Tổng Binh, Trấn Thú, Tuần Phủ lưu tâm an ủi, ban cho lương thực, chọn chỗ thích hợp để cư trú, không để đến nỗi đói khát’ Thực lục viết tiếp “Vẫn ra lệnh nghiêm nhặt canh phòng biên giới.

-20/Giêng TH23”13-2-1487”. Thực lục viết: “Mệnh Đô ngự sử Nam Kinh Đồ Dung đến Quảng Đông dụ quốc vương Cổ Lai. Bọn Tổng Đốc Lưỡng Quảng Hữu đô Ngự sử quân vụ Tống Mân tầu rằng: “Cổ Lai tại châu Nhai rất muốn được triều yết, để tố cáo sự tai hại gây ra bỡi Giao Chỉ xâm lăng, và nói rằng số châu huyện mà Giao Chỉ hoàn lại là những khu vực căn cỗi điêu tàn.” Nội vụ đem xuống dưới bàn, bộ Binh tâu rằng lời của Cổ Lai và lời tâu của An Nam trước đây không giống nhau; xin ra lệnh thêm nhiều quan đến họp bàn. Lúc này Anh quốc công Trương Mậu, Thị lang bộ Binh Hà Tông bàn rằng việc của 2 nước khó đoán cho chính xác; nên sai 1 viên đại thần đến khao thưởng Cổ Lai và bảo rằng triều đình thương ngươi vì nước, từ chốn xa xôi mệt nhọc lăn lội đến đây; tuy nhiên đừng nên vào triều vì sống bên ngoài lâu kẻ chiếm đóng có cơ hội củng cố vững vàng, còn người ở đất khách lại dễ thay  đổi lòng; chi bằng về nước sớm, để yên người trong nước. Xin gởi văn thư cho An Nam, hãy quí việc phục hưng nước bị diệt, nối dòng họ bị đứt. Nếu chuyện ấy xảy ra không phải là ý của vương, xin sai sứ đón Cổ Lai về để lấy lại nước, thì sẽ tự cởi bỏ mọi sự hiểu lầm. Hoàng Thượng ban chiếu chấp thuận, và mệnh Dung khởi hành.

HIẾU TÔNG THỰC LỤC.

-14/9TH23(30-9-1487). Thực lục viết nói Lê Năng Nhượng đi sư triều cống.

-13-10TH23(29-10-1487). Thực lục viết nói phong  vương cho con quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tại Quảng Đông rồi hộ tống về nước  và sắc cho nước An Nam trả đất xâm chiếm. Thực lục viết nói trước kia Lý Mạnh Dương, Diệp Ứng  đi phong vương cho Chiêm Thành. Nhưng đi chưa tới nơi thì Cổ Lai bị An Nam xâm đoạt bỏ nước theo đường biển đến Quảng Châu  và định đến triều tố cáo. Nay sai Đồ Dung đến Quảng Đông để thu xếp việc nên làm. Đến nơi Dung tâu lên: “Theo lời của Cổ Lai thì nước đó nguyên có 8 châu, 25 huyện bị An Nam thôn tính tất cả. Vào năm Thàn Hóa, Chiêm Thành đến tố cáo với triều đình nên được An Nam trả các xứ Bang Đô Lang, Mã Na Lý,4 châu 5 huyện. Sau đó đầu mục Chiêm Thành Đề Bà Đài làm phản theo An Nam; An Nam bèn cho y 1 châu 3 huyện; Chiêm Thành chỉ còn 3 châu 2 huyện . Nay Đề Ba Đài đã chết, An Nam đòi cho được mạng sống của y, ý đồ lấy hết đất như Bang Đô Lang và lập con Đề Bà Đài làm vương. Sau đó Lũ Ma, con của Cổ Lai, cùng đầu mục Vạn Nhân Phương cố thủ đê đợi. Ý  của Cổ Lai muốn được thụ phong tại Quảng Đông, xin bộ Binh hộ tống về nước, lại xin văn thư công nhận cương thổ để được an toàn. Bọn thần muốn lời xin được chấp nhận, xin mệnh bọn Mãnh Dương đến nơi này sắc phong, đến mùa Đông sai quan võ đến hộ tống trở về nước. Bọn Mãn Dương không cần phải thân hành đến đó. Lại xin sắc cho An Nam trả lại đất đã xâm lấn.” Bộ Binh phúc tấu đồng ý theo; bèn ban cho quốc vương An Nam Lê Hạo sắc văn như sau: “Mới đây được các quan coi giữ Quảng Đông tâu rằng con của quốc vương Chiêm Thành là Cổ Lai, tố cáo rằng nước này nguyên có 8 châu như Ban Nhược, Ban Thành và 25 huyện như Đá Lập…Vào năm Thành Hòa thứ 7 nước ngươi mang quân chiếm hết số đất  nêu trên. Vào năm Thành Hòa thứ 13, trả lại 4 châu 5 huyện trong đó có Bang Đô Lang, Mã Na Lý. Rồi đem 1 châu 3 huyện trong đó có Mai Đá Lý, Bôn Đế Ba Đế cho tên đầu mục phản phúc Đề Bà Đài. Sau đó lại ngầm ra lệnh Đề Bà Đài mang binh giết Cổ Lai; nên bị bộ hạ Cổ Lai giết chết. Bọn ngươi lại sai đầu mục mang quân bức phải trả mạng Đề Bà Đài. Vì lý do đó Cổ Lai quẩn bách, mang gia thuộc vượt biển từ xa đến tố cáo. Lại tra xét lời các ngươi trước đâytâu rằng đất đai Chiêm Thành do thổ tù nước đó tranh giành cát cứ; nay xét lại lời tố cáo của Cổ Lai thì ra các ngươi chiếm đoạt rồi đuổi họ đi. Nếu không vậy thì làm sao Cổ Lai lâm vào cảnh lưu ly đến như vậy. Nhưng nước ngươi vốn xưng lễ nghĩa, há lại ngoài mặt làm vẻ thiện, nhưng ngầm trong chứa điều ác, chỉ trang sức trên văn từ, trên thì thiếu lòng trung thờ nước lớn, dưới thì mất nghĩa hòa mục với lân bang. Hoặc giả vương không biết, nhưng ở dưới quan phòng thủ, đầu mục, đảng nghịch gây oán; che dấu mọi điều đến như vậy ư!Ty Bố Chính Quảng Đông đã thông báo cho nước ngươi, nhưng vẫn chưa nhận được phúc đáp. Nay nhân sứ trở về, đặc mệnh ban sắc cho vương hãy đem lòng giúp đỡ kẻ hoạn nạn để đáp ứng với ý muốn phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đức của triều đình; nghiêm khắc cấm chỉ những người phòng giữ biên giới cậy mạnh hiếp người yếu, gây điều độc ác; lấy 8 châu, 25 huyện, phía ngoài núi Mao Lĩnh trả lại cho Cổ Lai, tạo nên sự hòa mục giữa lân bang, cùng chung hưởng thái bình…(Đây là đoạn này nói việc ở biên giới Vân Nam)... Nhứng sự việc này ngươi hãy hồi tấu để thấy được lòng thành của ngươi. Nếu không ngay thẳng, vu khống, thì đạo trời làm phúc được thiện, họa đến cho kẻ ác; Vương hãy nên lo xét. Hãy kính cản nghe theo lời dụ này!”

-5 tháng Chạp TH23(19-12-1487). Thực lục viết nói nhân lên ngôi Hoàng Thượng sai sứ ban chiếu cho Triều Tiên,; Lưu Tiền, Lữ Hiến ban chiếu cho An Nam.

-3/2Hoằng Trị thứ nhất(15-3-1488).  Thực lục viết có đoạn: “Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai sai bọn bồi thần và cháu là Cáp Na Ba dâng biểu viết trên vàng lá, cùng đến triều cống sản vật địa phương

-13/10HT2(5-11-1489). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành trở về nước, lại sai em là bọn Bốc Cố Lương thông báo cho quan đại thần coi giữ Lưỡng Quảng rằng “An Nam vãn còn chiếm cứ, không có chỗ để ở. Xin như thời Vĩnh Lạc; mang binh che chở.””

Thực lục viết tiếp nói  sự việc đem bàn. Bộ Binh tâu: “An Nam và Chiêm Thành vị trí nơi bờ biển hoang tịch, đời đời triều cống , tổ tiên có di huấn là những nước không nên chinh phạt. Mới đây Cổ Lai mang gia quyến đến Quảng Đông; triều đình đã giáng sắc cho An Nam  lệnh xem xét xót thương, nhưng đến nay chưa nhận được lời tâu trở lại . Còn việc thời Vĩnh Lạc sai tướng mang quân đi chinh phạt là do Lê Qúi Lý thoán đoạt giết vua, không phải là do sự xâm lấn nước láng giềng. Mới đây Lê Hạo lo việc triều cống rất cẩn trọng, nhưng Cổ Lai tố cáo  nặng nề; như vậy cũng có phần quá đáng. Nếu chỉ căn cứ lời của 1 bên, rồi mang binh mạo hiểm vượt biển để đánh kẻ không đáng đánh, thì sai với đạo mềm dẻo với nước xa xôi. Nên lệnh các quan trấn thủ báo lại cho Cổ Lai rằng:Trước đây quốc vương đến tố cáo với triều đình, đã mệnh quan đại thần giúp đỡ săn sóc đầy đủ. Bây giờ hộ tống người của vương trở về xong. Sự tình được biết người Giao giết con của vương là Cổ Tô Ma, vương mang binh đánh lại chúng, sự rửa thù đã xong; sau không thấy An Nam mang quân đến đánh nước của vương. Đất của vương trước kia mất nay đã lấy lại được; bộ lạc của vương đã tan nay đã tụ lại được; đó là nhờ uy của Thiên Triều mới được như vậy. Nay lại kêu An Nam muốn chiếm đoạt đất trước kia; An Nam vốn xưng là nước biết lễ nghĩa; há lại hôn âm chuốc lấy sự trái. Nay viên quan phòng thủ nước ta trình lời của vương lên triều đình, mà lời hồi tấu cua An Nam thì chưa đến, sự kiện chưa rõ ràng  minh bạch; lai e vương oán xưa chưa bỏ được, nói quá sự thực; ta không thể chỉ nghe riêng một bên mà quyết định. Khi lời tấu của An Nam đến, ta sẽ xem xét, rồi báo cho ngươi hay. Vương hãy tự tin, điều hành quản trị, an ủi nhân dân và bảo vệ đất đai. Vương cũng nên tìm cách nối lại bang giao tốt với An Nam, quên hết đi những sự nghi ngờ. Từ xưa đến nay, không có 1 nguyên tắc nào cho nhà cai trị không tự tin ỏ mình, lại cầu xin triều đình mang quân đi đến từ miền xa xôi để bảo vệ họ. Sắc của Thiên tử sẽ giao cho Bốc Cố Lang(trên kia viết “Bốc Cố Lương”), y cũng được thưởng quà, rồi mang về nước.” ”

-15/4HT3(4-5-1490). Thực lục viết nói  sứ Đàm Văn Lễ đến triều cống.

-21/5HT3(8-6-1490). Thực lục viết: “Ngày Nhâm Thân, quốc vương Chiêm Thành  Cổ Lai sai người em là Bốc Cố Lang cống sản vật địa phương, cùng tâu quốc vương An Nam xâm chiếm đất đai, cho người chặn lấy những đồ vật như lụa nõn 2 lớp các  loại do triều dình ban cho, xin đưa quân đến cướu giúp. Mệnh đưa xuống các ty có trách nhiệm hay biết.

-25/5HT3(12-6-1490). Thực lục viết nói nay Lê Hạo sai sứ tấu chương biện bạch rằng việc tại Chiêm Thành do các thổ tù tranh dành cát cứ. Vân Nam vốn là nơi các thổ tù đã cư trú, không dám vượt biên sinh sự. Thực lục viết tiếp sứ Chiêm tố cáo An Nam vẫn nuốn thôn tính nước này, mong Thiên Triều mang binh che chở. Lúc bấy giờ Hoàng Bá Dương còn tại sứ quán. Mệnh quan bộ Binh đòi tới bộ Lễ rồi dụ rằng: “hãy về báo với quốc vương ngươi đừng nói nhiều lời, mỗi bên lo giữ gìn cương thổ để hưởng thái bình; nếu không vậy thì một ngày nào đó triều đình nổi giận, quân Thiên Tư đến biên cảnh như dưới thời Vĩnh Lạc thì không còn hối hận được nữa.” Thực lục viết tiếp: “sứ giả sợ hãi rút lui”

-10/6HT3(27-6-1490). Thực lục viết nói ban yến cùng phẩm vật cho cống sứ Chiêm Thành.

-26/7HT3(11-8-1490). Thực lục viết nói Đồ Dung đến Quảng Đông nay đã trở về. Quốc vương Cổ Lai sai sứ Ban Bà Đế đến tạ ơn và mang phẩm vật tặng Đồ Dung. Có chỉ dụ bảo Dung nhận. Dung từ chối nhưng không được chấp thuận. Dung bèn dâng sớ: “Thần trước đây quyền nghi xử trí công việc, tuy hết sức làm, có được chút hiệu quả bỡi tuân theo chỉ thị của triều đình, do sự tính toán của Hoàng Thượng. Nay Chiêm Thành từ chỗ diệt vong mà phục hưng, đều do uy đức của Hoàng Thượng, còn thần thì chẳng có sức ực gì! Đáng cho Cô Lai và con cháu đời đời báo đền công đức của triều đình, sao phải tạ ơn thần!Vả lại thần ở địa vị đứng đầu hiến quan, phong cách đòi hỏi phải trọng kỷ luật; nếu cẩu thả nhận đồ tặng, sau này sự việc sẽ đưa ra thiên hạ, truyền xuống hậu thế. Việc này không phải là điều vinh cho thần, mà lại lụy đến danh tiếng của triều đình, nên đồ lễ vật này thần không dám nhận”Sách dịch ghi chú nói hiến quan là quan coi về hình luật. Thục lục viết tiếp nói Hoàng Tượng chấp nhận lời tâu. Thực lục viết tiếp nói Sứ Chiêm trở về chưa xa. Bộ Lễ sai người đuổi theo mang đầy đủ lễ vật trả lại cho Chiêm Thành nói để vua tôi nước ngoài biết được phong cách tự xử của vị đại thần. Hoàng Thượng chấp nhận.

-16/10 HT8(2-11-1495). Thực lục viết nói Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai sai cháu  cùng bọn sứ Sa Cố Tính dâng biểu khắc trên vàng lá, cống sản vật địa phương.

-28/10HT8(14-11-1495). Thực lục viết “Ngày Đinh Sửu quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng nước này bị An Nam chiếm đất, giết người. Tuy được triều đình giáng sắc dụ phải hòa mục, nhưng An Nam ngoài mặt ra vẻ thuận lòng, còn âm mưu thì ác độc không ngừng. Nên sai cháu là Sa Cố Tính đến kinh khuyết xin đại thần đến nơi để giảng hòa, lời tâu rất bi ai. Sự việc đưa xuống để đình thần tập hợp bàn bạc, lời bàn cho rằng từ xưa chưa có lệ sai quan đại thần ra nước ngoài để hòa giải giữa các di. Xin giao Lưỡng Quảng gửi văn thư cho An Nam, dụ phải hòa mục với lân bang, hoàn lại đất  đã xâm chiếm. Cùng sắc dụ Cổ Lai chăm sóc nhân dân, tu luyện võ bị, để làm kế lâu dài. Khi sự việc đã yên. Lệnh 2 nước trình bày đầy đủ  sự thực rồi tâu lên. Lời bàn được dâng lên, ý Hoàng Thượng muốn sai quan đại thần đi xem xét. Bọn Đại Học Sĩ Từ Phố tâu: “Nước Chiêm Thành xin sai đại thần đến nước họ, báo cho An Nam trả lại hết đát đai đã xâm chiếm; các nha môn 2 lần hội nghị đều cho rằng không nên làm như vậy. Bộ Lễ được yêu cầu nêu rõ vấn đề rằngThánh Thiên Tử muốn sai quan đến dụ; nhìn lên thấy được Thánh ý đối xử chung một lòng nhân không phân biệt Di, Hạ; tuy nhiên bọn thần phân tích bằng sự lý, thấy sách Xuân Thu dạy”Không cai trị Di”; vì rằng sự chế ngự Di Địch và cai trị trong nước không giống nhau. An Nam tuy tuân thuận theo lịch Chính Sóc, làm tròn chức cống, nhưng vốn là ngoại Di; cậy hiểm và sức mạnh, thường làm chuyện xâm nhiễu ngoài vòng trật tự; các triều đại trước cũng thường bỏ qua. Còn nước Chiêm Thành kia thì quá nhỏ mà sơ viễn; bọn thần kính cẩn xem xét lời dạy của tổ triều Minh rằng Chiêm Thành và một vài nước khác triều cống lại đưa hàng đến bán có nhiều sự gian trá nên từ năm Hồng Vũ thứ 8 bị cấm, mãi đến năm Hòng Vũ thứ 12 mới được triều cống trở lại. Sau đó vào năm Thành Hòa thứ 7 bị An Nam xâm chiếm, mấy lần đến tố cáo. Hiến Tông Hoàng Đế mấy lần sắc Tổng trấn Lưỡng Quảng, Đô Ngự Sử khu xử. Nhưng An Nam khẳng định rằng họ đã rả lại đất; thực ra thì chúng không khai thực và không chịu nhận tội. Nay nếu giáng sắc, sai quan đến nước xa xôi này cũng chỉ phí lời, khó mà thi triển uy lực của triều đình, mặt khác hải đảo rộng rộng mênh mang không có cách gì khám xét đất đai; hơn nữa làm sao An Nam có thể tự động cải hối, bỏ cả mối lợi hàng mấy chục năm của chúng! Nhỏ thì che dấu lỗi lầm, lớn thì chống cãi lại; như vậy sứ thần không thể thi hành lệnh của triều đình, tưởng không nên dương oai nơi cõi ngoài, chỉ làm giảm quốc thể, gây sự nguy hại cho địa phương. Đến lúc đó, thì xử sự ra sao đây? Nếu bỏ qua mà không hỏi đến, thì tổn thương uy danh; đem sự việc ra hạch hỏi thì phải hưng binh, mối lo lại càng lắm. Hãy nghiền ngẫm những lời giáo huấn của tổ tiên: “Di Địch bốn phương,cách núi ngăn biển, riêng biệt một góc trời; có được đất đó không đủ cung cấp cho nhu cầu, có được dân đó không đủ để sai khiến. Nếu chúng đến quấy phá biên giưới của ta, tự nó sẽ gặp điều không lành; nếu nó không làm hại đến Trung Quốc, mà ta kinh xuất mang quân đi chinh phạt cũng là làm điều không lành vậy. Ta sợ con cháu sau này, ỷ thế Trung Quốc cường thịnh, tham chiến công nhất thời, mang quân đi đánh gây thương tổn chết chóc; điều đó không được phép làm.”Lời thánh Thiên Tử đáng làm khuôn phép vạn đời. Cho dù hiện nay kế hoạch quốc gia hư thực như thế nào, binh lực mạnh yếu ra sao; thì việc hao phí tài nguyên không kể hết, để tranh giành mảnh đất cằn cỗi cây cỏ không mọc được, là việc làm vô ích, càng không thể làm!Như việc Cáp Mật bị Thổ Phiên xâm đoạt trong hai ba mươi năm, mang quân khiển tướng, giành đi giành lại  đến nay vẫn chưa yên. Bọn thổ quan các xứ thù nghịch nhau, không thể lấy vương pháp mà cấm đoán được; vì thế bọn chúng đánh nhau là sự thường tình. Nay Chiêm Thành danh hiệu vẫn như xưa, triều cống cũng không khác; việc bị xâm đoạt có hay không, thực hay dối rá, vẫn chưa biết rõ. Tuy tình cảnh đáng thương, nhưng về lý không nên can thiệp đến cùng. Nay quan ty chỉ dùng văn thư hiểu dụ cũng được rồi; hà tất phải nhân danh Thiên Tử sai đại thần đi khám. Huống việc đại sự của triều đình không thể không hỏi quần thần. Nay mọi người đều một lòng tâu là không nên, nhưng chỉ nói chung về sự lý, chưa trình bày hết về lợi hại được mất. Bọn thần ở địa vị thân cận, là kẻ tâm phúc; nếu không trình bày hết, vạn nhất việc xấu nảy sinh, thì đến chết cũng không chuộc hết tội. bỡi  vậy không nề rờm lời khó nghe; trình bày những vấn đề liên quan đến Hoàng Thượng; xã tắc, sinh dân; chứ không phải muốn về hùa với đám đông. Nếu như thời thế có thể làm được, sự việc không gây tai hại, bọn thần đáng phải giúp Hoàng Thượng; đâu dám dâng lên những lời trái tai này. Hoàng Thượng nghe lời, bèn theo lời bàn của quần thần”

-16/3HT10(18-4-1497). Thực lục viết nói sứ thần Lê Tuấn đến cống.

-16 tháng Một HT11(29-11-1498). Thực lục viết nói Lê Hạo qua đời.

-21/6HT12(28-7-1499). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng: “Vùng cảng Tân Châu của bản quốc đã bị An An xâm đoạt từ lâu, chúng cướp giết nhân dân, mối lo chưa hết. Nay thần già lão, khi chưa chết muốn cho con trưởng là Sa Cố Bốc Lạc được nối ngôi, mong ngày sau có thể giữ được đất tại cảng Tân Châu.”Thiên Tử mệnh bộ Lễ, bộBinh họp lại để bàn bạc, rồi cả 2 bộ đều trình lên rằng: “An Nam gây tai hại tại Chiêm Thànhkhông phải mới xảy ra trong một ngày, triều đình thường nhân Chiêm Thành tố cáo bèn gửi tỷ thư chỉ dạy, lại sai thủ thần lấy đại nghĩa trách vấn, giảng điều họa phúc; nhưng An Nam trước sau tâu lên đều xưng rằng: “Đã tuân theo mệnh lệnh của triều đình, trả lại hết tất cả đất đai và nhân dân; ngoài 4 châu Thăng Hoa Tư Nghĩa đều do thổ tù cát cứ, nước tôi hoàn toàn không can thiệp” Nhưng An Nam vừa mới đưa lời biện bạch thì Chiêm Thành lại tố cáo, khó biết đâu là thật tình. Xin lệnh thủ thần gửi văn thư nghiêm khắc dụ  An Nam chớ tham nhân dân đất đai sẽ gây nên họa hoạn, nếu không tuân sẽ bàn định mang quân đi hỏi tội. Về việc con trưởng của vương Chiêm Thành, thì khi cha còn sống không có lý được phong kế tập, hãy lập lên làm Thế Tử để coi việc quốc sự; sau này như lệ định sẽ phong thế tập.” Điều này được chấp thuận

-27/6HT12”3-8-1499”. Thực lục viết nói bọn sứ Sa Bất Đăng Cổ Lỗ của Chiêm Thành đến cống.

-6/8HT12”10-9-1499”. Thực lục viết nói quốc vương Chiêm Thành  Cổ Lai sai cháu Sa Bất Đăng Cổ Lỗ cùng bon sứ thần Yển Thiện Nô Ba Địa đến cống.

-12/8 HT12”16-9-1499” Thực lục viết nói ban mũ và dây đai cho cháu vương Chiêm Thành Sa Bất Đằng Cố Lỗ cùng bọn sứ.

-12/9HT12”16-10-1499” Thực lục viết nói cấp cho cống sứ Chiêm Thành 60 người, mỗi người 9 đấu gạo ăn đường vì thuyền cũ bị gió bão làm tổn hại. Sai thủ thần Lưỡng Quảng  cho sửa chữa lại.

VŨ TÔNG THỰC LỤC.

-17/6HT18(17-7-1505). Thực lục viết nói con quốc vương Chiêm Thành Sa Cố Bốc Lạc sai sứ Sa Bất Đăng Cố Lỗ đến cống, xin đại thần đến nước này, vẫn tại các xứ cảng Tân Châu phong tước. Nhưng không tâu rõ về việc cha đã mất, lại nói qua về số đất  bị chiếm đoạt.  Bọn cấp sự trung NhiệmLương Bật có lời tâu rất dài trong đó  có những đoạn: “Lời di huấn của Hoàng Tổ cho rằng Chiêm Thành triều cống  mang thương nhân đi theo, nhiều trí trá, cần ngăn cấm.” Có đoạn viết: “Trước đây Cổ Lai  đã xin phong cho Sa Cố Bốc Lạc làm thế tử nhưng chưa được chấp nhận, nay lại xưng Cổ Lai đã mất, thực hư khó biết.” Có đoạn viết: “Mới đây nước này suy nhược; nên mượn việc tiến cống, sắc phong  để báo động lân quốc; kỳ thực quốc vương nước này lập hay không, không lệ thuộc vào việc phong tước hay không phong tước của triều đình.  Có đoạn viết: “nay nếu không xử trí được vấn đê lãnh thổ, lại đến phong, nếu sứ giả bị câu lưu để chờ phân xử, không biết triều dình xử trí như thế nào.” Thực lục viết tiếp nói việc đưa xuống, bộ Lễ họp bàn tâu: “Theo lệ quốc vương mất trước hết phải sai người trong họ đến cáo ai, nay không làm như thế. Vả lại trong tờ tấu xin phong  của Sa Cố Bốc Lạc không nói rõ năm tháng Cổ Lai mất; vậy nên sai ty bố Chính Quảng Đông gửi văn thư để nước này trình báo, rồi bàn xét sau. ” Thực lục viết tiếp: “Hoàng Thượng chấp nhận.”

-13/7HT18(12-8-1505). Thực lục viết nói ban cho sứ Chiêm Thành Sa Bất Đăng Cố Lỗ phẩm vật.

-25/Một HT18”20-12-1505.” Thực Lục viêt nói Lê Huy Mất con Lê Nghi cáo ai.

Viết việc tháng 3-1509, ĐVSKviết: “Thánh Tông thân hành đi đánh Chiêm bắt được Trà Toại và vợ con nó đem về nước ta an trí ở ngoài cữa Bảo Khánh gần 30 năm. Đến đời Cảnh Thống, con là Trà Phúc mang trộm hài cốt của cha là Trà Toại trốn về nước.” Tính ra thời điểm ở khoảng cuối triều Lê Hiến Tông(1498-1504).ĐVSK viết tiếp: “Trà Phúc đã trở về nước sai con là Ma La sang cầu viện nhà Minh, lại đóng nhiều thuyền, chứa nhiều lương. Do đó, vua sai bọn Cảnh đi kinh lý.”Cửa Bảo Khánh là cữa Nam thành Thăng Long.

-26/7Chính Đức thứ 5(30-8-1510) Thực lục viết : “Ngày Canh Thìn, người tạm coi việc nước Chiêm Thành thế tử Cổ Sa Bốc Lạc sai chú là Sa Hệ Bà Ma đến xin phong tước, cùng cống sản vật địa phương. Bộ Lễ tâu: “Sa Hệ Bà Ma đến kinh đô đã 1 tháng, quan bạn tống và  mang sản vật địa phương vẫn còn đi sau , nên trị tội trì hoãn.” Chiếu ban thưởng cho Sa Cổ Bộc Lạc cùng sứ thần như lệ. Về quan bạn tống, lệnh ty Pháp xét hỏi

-3/8CDD5(5-9-1510). Thực lục viết: “Sai cấp sự trung bộ Lễ Vu Thông sung chánh sứ, Hành nhân Lưu Mật thuộc ty Hành Nhân sung phó sứ phong thế tử       Sa Cổ Bộc Lạc chức quốc vương Chiêm Thành. Trước đó Tả cấp sự trung Lý Quán đến lượt đáng phải đi, trong nội bộ sửa lệnh bắt Thông đi. Vì người làng của Quán hối lộ cho Luu Cận, vài ngày sau bị bãi; rồi bị Thông khiếu nại; nên lại ra lệnh Quán đi. Quán đến Từ Châu, gặp cướp cắt ngắn tóc; tâu xin dưỡng ở nhà, chờ tóc dài rồi đi. Được chấp thuận. Sau đó Mật chết trên đường đi; Quán đến Quảng Đông tâu mấy lần nên việc trì hoãn đến 7 năm không đi; triều đình bàn cho nước này lãnh sắc phong mang về

-18/8CDD5(20-9-1510). ThỰC lục viết: “Ngày Qúy Sửu, ban cho sứ thần Chiêm Thành Sa Hệ Bà Ma lụa tốt và y phục làm bằng lụa; bọn này đến thỉnh phong. Chúng còn được ban mũ và dây đai có sai biệt

-12/6CDD7(24-7-1512). Thực lục viết nói quốc vương An Nam Lê Trừu{Tương Dực} sai bọn Bồi thần Đỗ Phúc Khiêm dâng biếu cống.

-13 tháng Chạp CĐ7(19-1-1513). Thực lục viế: “Trước kia cấp sự trung khoaLễ Lý Quán, hành nhân Lưu Mật nhận sắc để phong cho quốc vương Chiêm Thành Sa Cố Bộc Lạc. Đến Quảng Đông Mật bị bệnh mất. Sai hành nhân Luu Văn Thụy đi thay. Thụy chưa đến, Quán tâu rằng Chiêm Thành có những năm vào đầu triều đại đã không đến cống, mới đây các quan bàn không nên đi xa để phong; vậy xin tuyên sắc phong tại quán dịch Hoài Viễn tại Quảng Thành, cùng ban thưởng cho vương và phi những đồ vật; lệnh cho sứ giả là bọn chú vương, Sa Hệ Bà Ma, lãnh mang về. Sự việc đưa qua bộ Lễ bàn rằng Sa Cố Bộc Lạc nước Chiêm Thành xin phong đã hơn 2 năm rồi, nay vô cớ dừng lại không phong, là sai với chế độ phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt. Nếu trong muôn một Sa Hệ Bà Ma không tuân theo, hoặc phong người khác, rồi đi đến tranh chấp, thì xử sự làm sao đây? Xin như cũ, sai bọn Quán đến sắc tại nước này, để khỏi thất tín Di bên ngoài, mà thể chế của Trung Quốc cũng không tổn thất. Hoàng Thượng chấp thuận

-16/7CĐ10(25-8-1515). Thực lục viết: “Sứ thần Chiêm Thành bọn Lục Na Ba lãnh sắc cùng sắc phong  trở về nước.

Trước đây Sa Cổ Bộc Lạc sai sứ đến thỉnh phong, sai cấp sự trung Lý Quán mang sắc đưa đi. Quán đến Quảng Đông, xin theo lệ năm trước đây sách phong cho Cổ Lai, cho sứ thần lãnh sách phong trở về. Đình thàn bàn rằng: “Dã sai sứ đi trên 2 năm, nay nếu dừng lại nửa chừng, thì không họp với đạo phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt! Nếu sứ thần không chịu lãnh sắc phong, hoặc lãnh sắc rồi lúc trở về không trao đúng người nhận, thì lại một lần nữa gây mối tranh chấp, lấy cách gì để xử đây? Vậy lệnh Quán di gấp.” Quán lại tâu: “Đi sứ nơi xa cần có hướng đạo biết đường, thông dịch viên biết ngôn ngữ và chữ viết; nay tất cả đều không có, xin bàn và phân xử.” Đình thần bàn lại: “Lệnh các quan tuần phủ dịa phương, bằng mọi cách tìm cho được người hướng đạo và thông dịch. Nếu không có được; chấp nhận theo lệ cũ thi hành.” Rồi Quán lại tâu thêm: “Phụng mệnh đã hơn 5 năm , máy lần dâng sớ lên nhưng chưa quyết định được cách đi. Ai mà chẳng biết rằng sóng gió nguy hiểm đáng sợ; nhưng đáng lưu ý là đất Chiêm Thành từ đời Cổ Lai, sau khi bị An Nam thôn tính, thì vị trí không rõ ràng. Y chạy trốn đến Xích Khâm bang, Đô Lang quốc; không còn ở chỗ cũ, xét không thể đi được. Huống Cổ Lai là đầu mục của vua Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Am, đã giết vua đoạt ngôi, vua có 3 con, hiện còn 1 người. Theo đạo nghĩa hành động của y không đúng; xét theo sử Xuân Thu nếu không mang quân đi hỏi tội thì cũng nên chấm dứt con đường triều cống. Thần cho rằng cho họ lãnh sắc phong mà đi, còn giữ được điều lễ nghĩa; thì cần gì phải tìm kiếm hướng đạo, thông dịch, rồi đình thần họp bàn vô ích.” Gặp dịp tuần án Quảng Đông ngự sử Đinh Giai tấu tương tự như lời của Quán; bèn đem xuống họp phủ, bô, khoa đạo; bàn như sau: “Trung Quốc đối các Di Địch, đến thì vỗ về, không đến thì cắt đứt. Nay thế tử ở rừng núi bưng biền không đến được; vậy nên ra lệnh Tuần Án Quảng Đông triệu chánh sứ Lục Na Ba đến dụ rằng sứ thần không thể đi xa được, rồi lấy sách phong cùng lễ vật từ quán trao cho sứ thần mang về; như vậy không mất lòng nước Di xa xôi, mà toàn vẹn thể chế của Tiều đình.”Chiếu chấp nhận rồi lệnh Quán trở về”

-5/8CĐ15(16-9-1520). Thực lục viết: “      nước Chiêm Thành sai sứ thần, đầu mục, Thông sự Phiên Sáo và chú của vua là Sa Một Đế Đại  đến triều cóng

-17/Chạp CĐ15(25-1-1521). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Sa Cổ Bốc Lạc sai chú là Sa Một Đế Đại cùng bọn chánh phó sứ Sa Bát Thoát Na Biện tiến cống, tạ ơn được sắc phong. Mỗi người được ban cho mũ, dây đai có sai biệt

THẾ TÔNG THỰC LUC .

-3/Một Gia Tĩnh thứ 15(16-11-1536). Thực lục viết có đoạn: “Bộ Lễ tâu rằng An Nam không làm tròn chức cống đã 20 năm nay”. “Hoàng Thượng phán: ’An Nam chiếu sứ bất thông, lại từ lâu không đến cống, phản nghịch đã rõ ràng, hãy sai sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh thảo sai bộ Binh bàn định gấp rồi tau lên

-13/Một GT15(26-11-1536). Thực lục viết: “Hai bộ Lễ và Binh tâu rằng:…Hoàng Thượng phán: “An Nam bội phản, không chịu triều cống, đáng thảo phạt; chấp nhận lời bàn sai quan khám hỏi. Bộ Binh nên họp bàn về vấn đề chinh phạt rồi tâu lên.”

-24 tháng MộtGT15(7-12-1536). Thực lục viết: “Bộ Binh hội nghị về việc chinh thảo An Nam rồi tâu:…Sớ dâng, {Hoàng Thượng} ban chiếu rằng có thể thi hành; vẫn ra lệnh quan đi tra khám sự thực, rồi báo theo phương tiện nhanh.

-1/tháng Chạp GT15(12-1-1537). Thực lục viết: “Tả thị lang bộ Hộ Đường Trụ dâng sớ can gián về việc đánh An Nam như sau:…Thần tâu xin bỏ việc chinh phạt, đình chỉ việc sai vệ Cấm Y đi khám, bãi bỏ lệnh dự phòng binh lương. Sơ dâng lên, bộ Binh khen bàn mưu trung thành; riêng chiếu chỉ truyền đợi vệ Cám Y khám tâu, rồi bàn.

-3/2 GT16(13-3-1537). Thực lục viết: “Cháu dòng dích cua vua An Nam là Lê Ninh sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu gồm 10 người đến kinh đô tâu rằng:…Hoàng Thượng theo lời bàn của bộ, ra chiếu vệ Cám Y  câu lưu bọn Trinh Duy Liêu, không được tiếp xúc với bên ngoài. Theo lệ đối xử giống với trường họp cống sứ Triều Tiên, do Quang Lộc tự cung cấp.” Sách dịch chú giải nói Lê Ninh là vua Trang Tông.

-12/4GT16(20-5-1537). Thực lục viết: “Ngày Canh Thân, hai bộ Lễ và Binh hội họp đình thân bàn về việc chinh thảo An Nam tuyên bố rằng Mạc Đăng Dung có 10 tội, không thể khoan dung mà không đánh: Tội thứ nhât….Xin ban bố quyết định, truyền bá trong ngoài, khiển tướng luyện binh, định ngày tiến đánh. Bọn Trịnh Duy Liêu được đưa theo quân môn để quan Tổng binh tham khảo xử dụng. Hoàng Thượng phán: “An Nam từ lâu không đến cống tại sân đình, theo phép đáng hỏi tội. Nay nước này tâu rằng nghịch thần Mạc ĐăngDung soán đoạt, ngăn trở đường đi cống, lại tiếm xưng danh hiệu, đặt quan lại ngụy, tội ác đã rõ ràng, mệnh tướng xuất sư chinh thảo…(Đoạn này sắp xếp nhân lực)…Trần Vĩ  sung Du Kích tướng quân. Tất cả lãnh binh chinh thảo, riêng đại tướng quân đợi chiếu chỉ tuyển dụng””

-24/3 GT17(22-4-1538). Thực lục viết: “Vì những lời tâu về Lê Ninh, nên tạm hoãn việc chinh phạt An Nam. Chiếu mệnh các đốc phủ Vân Nam Lưỡng Quảng khám xét đích xác tình hình người Di, để xem nên chiêu dụ hay chinh phạt. Nay tuần phủ Vân Nam Đô Ngự Sử Uông Văn Thịnh truyền lịnh cho các thổ quan, hào mục An Nam  nếu đến qui thuận trước; được ban cho chức tước truyền đời. Lịnh bọn Vũ Văn Uyên báo cựu thần nhà Lê, để mọi người hưng binh phấn đấu. Lại dụ Mạc Đăng Dung tự trói mình qui thuận, nạp bản đồ cùng sổ hộ tịch, sẽ không bị tội chết. Lúc đó các thổ quan, hào mục An Nan như…cùng thổ quan tại biên giới như…và những người khácđều tình nguyện nội phụ…Lúc này con của Đăng Dung là Phương Doanh đã lên thay thế…Phương Doanh sợ, bèn sai đầu mục bọn Phạm Chính Nghị dâng biểu xin hàng, và gửi điệp văn cho các phủ trấn như Mộc Triều Phụ, kể đầy đủ việc nhà Lê  suy loạn…Xin được tha tội, cho theo lệ vào triều cống. Lại xin cống bù thêm những năm tháng không đến triều. Nhân kể rằng Lê Ninh là con cháu dòng họ Nguyễn, mang ấn giả, không đủ làm bằng. Bọn Triều Phụ dâng biểu văn xin tha cho Phương Doanh, cho làm phiên thần; không được gây hấn với Lê Ninh và Vũ Văn Uyên, trả lại đất ở biên giới đã xâm lấn trước kia. Lại xin rút quân ra khỏi thác Liên Hoa, thăng thưởng cho các quan quân có công tại đấy. Cùng lúc Triều Phụ lại báo Lê Ninh đã nhận được hịch văn gửi trước đó, tường trình việc {họ Mạc} soán đoạt và giết vua; xa giá lánh nạn; cùng cung cấp tin tức về số binh mã thủy bộ , trình bày con đường tiến quân. Chiếu thư phán đưa nội vụ xuống bộ Binh tập họp phủ, bộ các quan hội bàn; rồi tâu rằng: “…Nhưng đất này giáp với 3 tĩnh của ta, các quan Đốc, trấn quyền ngang nhau, thế lực chia rẽ, ý kiến bất đồng không khỏi khiên chế lẫn nhau; cần tổng chỉ huy bỡi quan văn võ, ngõ hầu thống nhất điều động, thành công mau chóng. Vậy xin suy cử Hàm Ninh hầu Cừu Loan, thượng thư bộ Công đê đốc công trình Mao Bá Ôn nhận chức Tổng Đốc tham tán trông coi lục quân, cho phép được tiện nghi hành sự”.  Được chiếu chỉ phán: “Chấp nhận theo lời bàn”

-21/6 GT22(22-7-1543) Thực lục viết: “Vương nước Chiêm Thành  Công Sa Nhật Đế Tề sai chú là Sa Bất Đăng Cổ Lỗ dâng biếu văn khắc trên vàng lá, cống sản vật địa phương

-11/7 GT22(11-8-1543). ThỰC lục viết: “Sứ thần nước Chiêm Thành bọn Bất Đăng Cổ Lỗ viện dẫn lệ cũ, tấu xin cấp cho mũ và đây đai. Lại than rằng nước này mấy lần bị An Nam đánh phá, đường sa trở ngại không về được, xin cho  người hộ tống xuất cảnh. Chấp nhận.

MỤC TÔNG THỰC LUC.

THẦN TÔNG THỰC LUC.

HY TÔNG THỰC LUC.

HOÀI TÔNG THỰC LUC.