MINH THỤC LUC
Tập 3. NXB Hà Nội. Hồ Bạch
Thảo dịch.
-19/8Thiên Thuận 4(3-9-1460).
Thực lục viết: “Ban cho sứ thần Chiêm
Thành Cừu Biệt Đà Phát; người trong họ của quốc vương Thả Dật Đà Bằng mũ sa,
dây deo bằng vàng; bọn phó sứ Cửu Thôn Tái, Tống quân Như Y Nam mũ sa, dây đeo
bạc; bọn Xá nhân như bọn Cơ Sái Bàn Ma mũ sa dây đeo có sừng đen”
-13/9 TH4(27-9-1460). ThỰC lục viết: “Chiếu dụ nước Chiêm Thành: “Từ xưa đến nay
cac đế vương ngự trị thiên hạ, không ai là không cư xử chung với một lòng nhân;
vì vậy chốn hoang vu cõi ngòi được phổ cập gió hóa. Nước Chiêm Thành các ngươi,
vị trí nơi góc biển hoang tịch, đất riêng một phương tất phải lập người đứng đầu
đê thống trị dân chúng. Bỡi vậy quốc vương quốc vương Ma Ha bàn La Duyệt mới
đây được phong tước vương, nối nghiệp quản lý việc nước, chưa được 4 năm đã vội
mất, cái lý kế thừa không thể thiếu. Người em là Bàn La Trà Toàn, tính tình đôn
hậu, biết giữ lễ khiêm cung; nên đặc cách sai cấp sự trung VươngNhữ Lâm làm
chánh sứ, Hành nhân Lưu Thử làm phó sứ mang chiếu thư phong cức quốc vương
Chiêm Thành. Phàm dân chúng trong nước đều phải tuân phục, tuân theo lẽ phải mà
sống yên ổn, không được tranh dành phạm pháp. Tất cả một lòng giúp rập, khiến đất
nước hòa bình anh ninh, thấm nhuần phong tục nhân hậu, vĩnh viễn hưởng phúc
thái bình.” Lại sắc dụ Bàn La Trà Toàn rằng: “Vương ccs ngươi đời trước, có nước
nơi góc biển xa xôi, hết lòng trung kính thuận theo trời thờ nước lớn, càng lâu
càng bền. Nay vương lại biết thừa kế, ai người trong họ là Thả Dật Đà Bằng mang
sản vaath địa phương đến cống, lòng thành khẩn đáng khen. Sứ trở về đặc cách
ban cho vương cùng vương phi gấm lụa để đáp laijys tốt; vương càng kiên dịnh,
giữ tiết bề tôi, để đáp ứng ưu đãi” ”tr69
HIẾN TÔNG THỰC LỤC
-5/3 TH8(11-4-1464) Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn sai
sư thần dâng biểu viết trên vàng lá, cống voi thuần và các sản vật địa phương”
-7/3 Thiên Thuận thứ 8(13-4-1464).
Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành
Bàn La Trà Toàn sai sứ tâu rằng nước An Nam xâm lăng quấy nhiễu để đòi hỏi voi
trắng. Xin căn cứ theo việc làm thời Vĩnh Lạc cử sứ giả đến chiêu an, lập bia
đá tại biên giới đê khỏi phải xâm phạm; chấm dứt thù hằn gây hấn. Lời xin được
đưa xuống bộ Binh bàn, rồi phúc tấu: “Xin thông sự báo sứ thần trở về nói với
quốc vương rằng hãy cẩn thận giữ lễ pháp, giữ vững biên cảnh chống lại ngoại
xâm, đừng nông nổi gây họa.” Hoàng Thượng chấp thuận”
-11/9 TH3(8-10-1467) Thực
lục viết: “Ngày Qúi Dậu, Quốc vương Chiêm
Thành Bàn La Trà Duyệt sai sứ thần Xú Lặc cống voi cùng sản vật địa Phương”
-Trang 83. Ngày 4/10 năm Thành Hòa thứ
5(TH5). Tức 7/11/1469. Thực lục viết nói Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Duyệt(Toàn)
sai bọn sứ thần Bố Sa Phạ Bà La Thủy dâng biểu triều cống voi và sản vật địa
phương.
-27/Một TH5(30-12-1469):
thực lục viết nói bọn phó sứ A Ly nước
Chiêm Thành tâu xin cấp khăn đội đầu.
-27/5 TH7(15-6-1471) thực
lục viết nói quốc vương An Nam Lê Hạo sai
bọn Bồi thần Quách Đình Bảo Nguyễn Đình Anh đến triều tâu “thời Tuyên Đức 4 châu Thăng Hoa Tư nghĩa bị mất. Châu Hóa bị vây mấy lần
thần muốn đánh dẹp lại sợ lời dạy bảo của thánh Thiên Tử…”Thực lục viết tiếp
nói bản tấu được đưa xuống bộ binh bàn rồi tấu lên: “Lòng tham của Lê Hạo không cùng âm mưu thôn tính lại dương ngôn là nạn
nhân. Xin ban sắc văn để ngăn ngừa sự gian trá.” Thực lục viết nói sắc của
Hoàng Thượng: “An Nam ngươi và Chiêm
Thành đều được triều đình ban tước và đất, đời đời nạp cống làm phiên thần TQ
nơi biên giới há lại gây oán hưng binh đánh lẫn nhau. Sách Xuân Thu nêu trách
nhiệm người hiền phải yên phận, thuận theo lý, giữ lãnh thổ, bỏ oán thù, dập tắt
tranh giành. Ngươi trước hết phải làm trọn đạo hòa mục với lân ban và cấm đoán
bọn đầu mục không sinh sự gây hấn. Nếu như có mưu kế thôn tính thì không phải
là phước cho ngươi, nên cẩn thận, cẩn thận! Về phần Chiêm Thành đợi khi sứ nước
này đến, xét kỹ sự thực, sẽ có sắc ngăn ngừa. Trẫm thay trời cai trị vạn vật đối
xử chung một lòng nhân, không nỡ để 2 nước các ngươi vương vào họa binh đao;
nên đặc biệt ra chỉ dụ khuyên răn để hiểu thịsự lo lắng..”
-9/9 TH7(26-6-1471).
Thực lục viết nói ban cho bọn Bồi thần Nguyễn Đình Anh yến và các loại lụa. Thực
lục viết “Khi Đình Anh trở về, ban sắc
cho Lê Hạo nội dung cấm người trong nước không được vượt biên cảnh cướp phá.”
KĐVS viết việc năm 1471,
tháng 9 nói sai sứ sang nhà Minh. Sách dẫn Sách Bang giao bị lãm của Giáp Trưng
chép nói tháng 10 năm 1471, Lê Thánh Tông sai bọn Nguyễn Đức Trinh và Phạm Mục
sang báo cáo với nhà Minh, đại lược trong lời tâu nói: "Tháng 8 năm ngoái, vua nước Chiêm Thành đem quân đánh úp đất Hóa
Châu nước tôi, tôi thân hành đem người trong nước đi cứu viện Hóa Châu. Tháng 5
năm nay, vua Chiêm Thành lại bắt hơn 10 vạn quân vây hãm tôi mấy trùng; trong
lúc nguy cấp, tôi phải phá vòng vây để đón đánh lại. Người nước Chiêm vẫn oán
giận họ, không còn có chí chiến đấu, cùng nhau người thì phản lại, người thì bỏ
trốn. Quân tuần tiễu của tôi kéo đến quốc đô nước ấy, thì dân chúng nước ấy
không giúp rập vua, nên người bỏ binh khí chạy trốn, người quay giáo đầu hàng,
vua Chiêm Thành đem quân đi về phương nam, tôi thấy thế, liền đem quân về nước
giữ vững cảnh thổ cũ nước mình. Tôi trộm nghĩ: Chiêm Thành xưa nay vẫn thù địch
với nước tôi, nay lại đem quân đến đánh úp cướp bóc, tôi bất đắc dĩ phải mạn
phép tập hợp binh sĩ để ứng phó, trong lúc vội vàng chỉ muốn gỡ mối lo nhiễu
nhương ở nơi biên quận. Làm như thế, cũng e rằng trái với lời ân cần răn bảo của
bậc thánh minh, tôi rất lấy làm lo sợ. Bây giờ việc tiến lui của tôi chỉ xin
theo mệnh lệnh thiên triều định đoạt" MTL đăng việc đi sứ của Nguyễn Đức
Trinh vào năm sau, tức năm 1472
-21/5TH8(27-6-1472)thực
lục viết nói nước Chiêm Thành sai sứ Lạc Sa đến cấp báo rằng “nước chúng tôi tiếp giáp với An Nam mấy lần
bị nước này xâm đoạt. Mới đây vài người đến đòi sừng tê giác, ngà voi, đồ vật
quí, lại đòi hỏi phải phụng sự người An Nam đưa đến nghi lễ giống như phụng sự
sứ thần Thiên Triều. Nước chúng tôi nghĩ rằng đã cùng nước An Nam nhận lịch Chính
Sóc của Hoàng Triều nên không chịu khuất tuân theo vì lý do đó nên An Nam gây hấn.
Vào tháng 2 TH7 quan An Nam đến đánh phá kinh thành bắt được quốc vương Bàn La
Trà Toàn cùng gia thuộc hơn 50 người, tịch thu ấn quí, phá hủy nhà cữa, cướp giết
quân dân nam nữ nhiều không kể xiết. Nay em của vương là Bàn La Trà Duyệt tạm
thời coi việc nước. Cúi xin phân xử. ” Thực lục viết tiếp nói tờ tấu gửi xuống
dưới. Thượng thư bộ Binh tấu lên nói năm TH7 An Nam tâu Chiêm Thành vượt biên
giới xâm lăng. Cần ngăn cản sự tàn ngược. Bọn thần tâu rằng Lê Hạo có âm mưu
thôn tính Chiêm Thành. Thực lục viết tiếp nói An Nam mấy lần đánh phá Chiêm
Thành, bắt vua nước này nên không có cách xử trí thì mất lòng qui phụ của Chiêm
Thành, dung dưỡng kẻ ngang ngạnh. Nên sai quan mang sắc dụ, bắt phải trả lại ấn
tín, quốc vương cùng gia quyến bị bắt. Thực lục viết tiếp nói chỉ dụ phán “Bắt phải sai quan đi, đợi sứ thần An Nam đến
sẽ trao sắc dụ.”
-22/6 TH8(27-7-1472).
Thực lục viết nói phong cho Bàn La Trà Duyệt, em cố quốc vương Bàn La Trà Toàn
kế lập chức quốc vương Chiêm Thành. Thực lục viết nói Bàn La Trà Toàn bị An Nam
bắt, ấn tín bị lấy mất. Nay em là Bàn La Trà Duyệt tạm thời trông coi việc nước
tâu xin phong tước, cấp ấn tín. Bộ Lễ tâu xin theo lệ sai quan đến phong thế tử Ma Ha Bi Cai
để làm vẻ vang cho lời xin. Được chấp nhận, Hữu cấp sự trung khoa công Trần
Lăng, hành nhân Lý Sang thuộc ty Hành Nhân đến phong.
-5/9 TH8(6-10-1472).
Thực lục viết nói sứ thần Lại Sa Lộng Chiêm Thành đến cống.
-6/9 TH8(7-10-1472) Bồi
thần Bùi Viết Lương đến cống.
-13/9TH8(14-10-1472) thực
lục viết nói sắc dụ Lê Hạo chớ xâm vượt lãnh thổ Chiêm Thành. Hạo sai Nguyễn Đức
Trinh dâng thư tự trình bày nói Chiêm Thành xâm lấn Hóa Châu. Gởi binh tiếp viện.
Chiêm Thành làm phản nên bị thua. Thực lục viết tiếp nói Hoàng Thượng sai Đức
Trinh mang sắc dụ Lê Hạo. Dụ nói là Chiêm Thành tâu tháng 2 TH7 Hạo đánh phá bắt
quốc vương thân thuộc hơn 50 người, cướp ấn, đốt nhà cữa, giết người già trẻ em
không kể xiết. Hoàng Đế cho rằng lời riêng không tin được. Nay nhân được tâu, lời
ý đều khác. Dụ có đoạn” “nhưng nước vương với Chiêm Thành thế lực lớn nhỏ không cần
phải biện thuyết. Nếu bọn họ gây hấn trước, thì thật không biết độ đức lượng sức
nên gây ra sự bất nghĩa; nếu vương vin vào việc họ quấy phá nhỏ, rồi giận lên
hiếp kẻ yếu gây hấn lớn thì hợp với dạo nghĩa ư! Khi sắc đến vương nên bỏ qua những mất mát nhỏtăng điều đại
nghĩa, trả lại những người bị bắt, răn đe quan lại nơi biên giới đừng sinh sự lập
công, hưng binh gây oán hoặc chyên việc báo thù gây nên sự đau buồn, ngỏ hầu trời
soi sáng, vĩnh viễn hưởng danh thơm. Khâm thử!”
-14/12TH10(21-1-1475).
Thực lục viết “Hữu cấp sự trung khoa Công
Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại thứ đã mang đi như
chiếu sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa
đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho quốc vương Bàn La Trà Duyệt, khi
hàng hải đến cảng Tân Châu Chiêm Thành, quân phòng thủ từ chối không cho vào,
người thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm còn quốc vương Chiêm Thành
tị nạn tại Linh
Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An
Nam bắt và đất Chiêm Thành đổi tên thành châu Nam Giao. Bọn Tuấn không dám ghé
vào; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân nên giả lấy cớ bị gió
bão rồi đi tiếp đến Mãn Lạt Gia. Buôn bán, lại dụ vương nước này sai sứ đến triều
cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành , cùng việc quốc
vương Mãn Lạt Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất
đầy đủ.” Thực lục viết tiếp nói việc được đưa xuống cơ quan hữu trách. Bộ Lễ
tâu nói nên đợi sứ Mãn Lạt Gia nhập cống. Lúc trở về giáng sắc khen thưởng
vương nước này. Bộ Binh tâu nói An Nam cậy mạnh thôn tính nước được triều đình
phong tước. Việc quan hệ không nhỏ. Nên bàn luận rộng rãi. Bọn Anh Quốc Công Trương
Mậu tâu hài tội thảo phạt. Nay chưa biết được nguyên do Chiêm Thành diệt vong,
không nên kinh động. Chờ năm sau vào kỳ An Nam triều cống.
-6/5 TH11(9-6-1475).
Thực lục viết nói sứ Mãn Lạt Gia vào triều cống lúc trở về ban thưởng cho vương
nước này về chuyện năm trước giúp đỡ bọn quan cấp sự trung đến Chiêm Thành bị
trôi dạt. Thực lục có đoạn “nước Mãn Lạt
Gia sai chánh phó sứ bọn Đoan Mã Mật dâng biểu viết trên vàng lá, cùng các vật
như voi, ngựa, Hóa Kê, vẹt trắng, báo,
tiền vàng.” Sách dịch chú thích Hóa Kê là casowary là đà điểu đầu mèo phân
bố ở Papua New Guinea, Australia. Ghi chú số 1997 ĐVSK bảng điện tử nói Lạt Gia
là Mãn Lạc Gia, tức là Malacca.
-25/8TH11(24-9-1475)Thực
lục đăng lời tâu của Lê Hạo:”Năm trước
nhân quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị người em
là Bàn La Trà Tọai giết. Toại tự lập lên làm vua, sắp xin cầu phong; lại bị con
Bàn La Trà Duyệt là Trà Chất Đài Lai giết, từ đó nước trong nước này loạn lạc nổi
lên, không có một ngày yên ổn. Việc đó không phải là lỗi của nước thần. Nay
tuân theo chỉ dụ của Thiên Tử dẹp binh đao, hòa mục với lân bang; số người nước
này bị bắt gồm 740 trai gái đều cho trở về nước.”Thưc lục viết tiếp nói lời
tâu đưa xuống. Bộ Binh trình nói lời của Lê Hạo sơ lược không nói đến việc xâm
chiếm Chiêm Thành, không giống lời tâu của bọn Hữu Cấp sự trung Trần Tuấn. Thực
gian không quyết được. Thực lục đăng sắc dụ của Hoàng Thượng ban cho Bồi thần Lê
Hoằng Dục vào triều cống ngày 21/8TH11(20-9-1475) khi về nước mang sắc dụ Lê Hạo:“ Trước đây nhân Bàn La Trà Duyệt tâu rằng
vương nước này là Bàn La Trà Toàn bị nước ngươi bắt, Chiêm Thành hiện nay không
có chủ nên đến xin phong tước. Trẫm thể
theo đức hiếu sinh của trời đất chấp nhận lời trần tình sai sứ đến phong. Đến
lúc sứ về tâu rằng đất nước Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm đoạt, đổi thành
châu ấp. Trẫm nghi nhưng chưa tin, nay được ngươi tâu rõ ràng rằng Chiêm Thành dùng binh gây oánxâm nhiễu
biên cảnh lân bang, đến nổi bản thân chết, nước bị phá; tất cả đều tự gây ra. Sự
việc chưa rõ ràng nhưng lý có thể như vậy; huống lời và ý của vương khẩn khoản,
chắc không phải dùng lời lẽ để che dấu lỗi lầm. Nhưng Chiêm Thành là nước truyền
từ lâu đời, trước kia há không có một lực lượng nào mạnh có sức thôn tính nước
này, nhưng sử sách chưa từng nghe, vậy
bài học được mất có thể thấy được. Nay nếu
nước này thình lình bị tiêu diệt, không những trái với chiếu chỉ của triều
đình; mà còn e bị các nước phiên tại hải
ngoại sinh sợ, rồi gây sự tranh giành, như vậy đối với vương có lợi ư!. Sắc đến
vương nên sửa đổi, cho người trong họ vua Chiêm cùng dân chúng trở về, khôi phục
đất đai để cho không tuyệt nòi giống. Làm được vậy thì việc nối dòng bị đứt(sách
dịch thiếu chữ “không”?), kính trời thờ nước lớn của vương vẹn cả
hai đường. Vương hãy gắng cho được”
ĐVSK Tháng 10-1474: Bọn sứ
Lê Hoằng Dục, nguyễn Đôn Phục, Ngô Lôi đi nộp cống. Nghiêm Nhân Thọ, Nguyễn
Đình Mỹ tâu việc Chiêm Thành tan vỡ quấy nhiễu biên giới.
ĐVS: 1476 tháng 10, sứ mừng
lập Hoàng Thái Tử Lê Tiến. Nguyễn Tế tâu việc địa phương ChiêmThành.
-26/3TH14(28-4-1478).
Thực lục đăng lời tâu của Lê Hạo:”Đầu mục
Chiêm Thành Ba Lung Ma Ha trước đây thông hiếu với nước thần. Vào năm Thành Hòa
thư 11 nước y thu hoạch được nhiều thuyền của nước Lưu Cầu do gió thổi trôi dạt
đến; bèn mang quân đến nước thần xâm lược; bị quân tại biên giới đánh bại. Nay
bồi thần Lê Hoằng Dục từ Thiên Triều trở về dâng đặc dụ trách thần chiếm đoạt đất
đai Chiêm Thành đổi thành châu ấp. Vì việc này, thần không thể không lọc máu viết
lời trần tình để đoan chắc rằng không có. Phàm đất đai mà Chiêm Thành được
phong rất cằn cỗi, nhà thì nghèo nàn, vườn không có tơ dâu, núi không có của
báu, biển thiếu lợi về cá muối; chỉ có ngà voi, sừng tê giác, tô mộc, trầm
hương mà thôi; mà nước thần sản xuất những thứ đó nhiều, nên không cho là quí.
Lấy được đất đó không thể ở được, lấy được dân đó không dùng được, được sản phẩm
đó không đủ để giàu, được cái thế đó cũng không trở nên mạnh được. Giữ gìn đất
đó rất khó, mà lợi thì ít. Phàm mất nhiều mà lợi thì ít, họa thì rõ ràng, mà
danh thì mờ mịt; đó là lý do tại sao thần không chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành
để biến thành châu quận. Nay triều đình lại dụ thần trả lại đất đai cho Chiêm
Thành để nước đó không mất chỗ thừa tự. Thành thực thần cho rằng Thiên sứ trong
lúc vội vã hỏi han điều tra không rõ ràng; mà dân Chiêm Thành chạy loạn thì có
mối thù nước thần nên lời nói không đáng tin. Vậy xin đặc sai sứ giả Thiên triều
đích thân đến xem đất đai và phục hưng dòng bị tuyệt khiến cho nước Chiêm Thành
trên dưới được an tập; nơi biên thùy của thần cũng được yên ổn để làm nước
phiên của Trung Quốc, có ích cho người phương xa, đó là ý nguyện của thần vậy.
Kính cẩn sai Bồi thần Nguyễn Đạt Tế tâu lên”Thực lục viết nói hoàng Thượng
mệnh đem tấu chương này xuống dưới bàn luận.
-24/4TH14(25-5-1478)bồi
thần Bùi Sơn samg mừng lập Hoàng Thái Tử.
-3/5TH14(3-6-1478)
Bùi Sơn trở về xin sai quan hộ tống đến phủ Nam Ninh vì sứ than bị quan địa
phương hay sách nhiễu.
-30/7TH14(27-8-1478) Thực
lục viết: ”Quốc vương Chiêm Thành sai người
chú Ba La Á Đệ cùng bọn sứ thần La Tử đến dâng biểu viết trên vàng lá và triều
cống sản vật địa phương.”
-6/8TH14(2-9-1478) Thực
lục viết: ”sai Cấp sự trung khoa Lê Phùng
Nghĩa, Hành Nhân Trương Cẩn mang chiếu chỉ phong cho Tế Á Ma Vật Am làm quốc vương Chiêm Thành . Tế Á Ma Vật Am
sai người tâu rằng người An Nam trả lại một cõi đất phía Nam để cai quản và làm
chủ nước này nhưng sợ uy trời không dám tự tiện chủ trì, bèn sai sứ tâu trình
và xin phong . Bỡi vậy mới có mệnh này. Ghi chú của sách dịch nói Tề Á Ma Vật
Am Minh sử chép là Trai Á Ma Phất Am ĐN LT chép giống Minh Sử. Việt Sử Thông Giám
Cương Mục Khảo Lược chép là Tề Á Ma Phất
Yêm.
-9/5TH15(29-5-1479).
Thực lục viết: ”Tá phó ty Hành Nhân Trương
Cấn mang chiếu thư đến phong cho quốc vương Chiêm Thành . qua huyện Thanh
Giang, Giang Tây gặp sóng gió phá hư thuyền , chiếu thư và đồ vật đều bị hư ướt.
Quan thủ thần trình lên. Bộ Lễ tâu bàn rằng “Chiếu thư và lễ vật nên thay mới ,
riêng sai hành nhân đưa đến cho Cẩn; những vật khác không cần lấy ra từ kho
trong triều, lệnh ty Bố Chính Quảng Đông cho chế ra giống y như vậy. Lại bảo rằng
“tờ tấu không có tên họ viên chánh sứ; lệnh tuần án Giang tây, ngự sử xét sự thực
trình lên” Hoàng Thượng chấp nhận ”
-9/6TH17(5-7-1481).
Viết việc An Nam đánh Cầm Công ở Lão Qua. Lời tâu của Mộc Tông ở Vân Nam có đoạn:
“Hạo trước kia đã thôn tính Chiêm Thành ;
Hoàng Thượng bỏ qua, ban cho sự khoan dung, mong rằng biết hối tội. Nhưng Hạo lại
buông tuồng theo điều ác không kiêng kỳ”
-21/9TH17(13-10-1481) Thực
lục viết”Ngày Nhâm Thìn, Cổ Lai nước
Chiêm Thành sai cháu vương là Cap Na Ba dâng biểu cống voi, cọp, sản vật địa
phương, cùng thỉnh phong. Ban cho áo dệt kim, các vật như lụa màu, đoạn có sai
biệt”
-22/9TH17(14-10-1481) Thực
lục viết: Thượng thư bộ Binh Trần Việt tâu: “Nước An Am cách vạn dặm tại nơi u tịch Tây Nam, tiếp giáp với Vân Nam
Lưỡng Quảng. Vào năm Vĩnh Lạc vương sư chinh phạt, chia đất này thành quận huyện.
Sau đó thủ thần chế ngự không được, lại bị mất trở lại. Nay đâm ra ngỗ ngược
làm càn, phía Đông nuốt Chiêm Thành, phía Tây thôn tính nước Lão Qua, đánh phá Bát Bách, ban
sắc ngụy cho ty tuyên ủy Xá Lý, giết Mãn Lạt Gia sứ thần; sự việc không thể
không đáng lo. Năm trước có người tại biên giới từ An Nam trở về nói vương nước
này muốn xâm phạm Vân Nam. Nhưng mẹ vương đã can gián nên dừng lại. Ngự sử
Vương Thứ tâu rằng An Nam sai những tên ngụy, giả làm thương nhân đến dò thám
hư thực; lại nghe rằng có người Giang
Tây họ Vương theo bọn vong mệnh làm ngự sử ngụy, trù liệu sách
lược, đôn đốc binh; mấy lần xâm nhiễu, vị tất không do mưu của tên này? Sứ thần
Chiêm Thành cũng nói rằng An Nam sửa soạn 3.000 chiếc chiến thuyền, muốn tập
kích Hải Nam; không thể không phòng bị.”Thiên
Tử phán: “Trẫm lấy lễ ngoại quốc mà đối
xử với An Nam; mỗi lần vi phạm lại tỏ sự dung thứ. Nhưng nước này bên ngoài thì
tỏ ra cung kính, nhưng trong trí trá, hành động của chúng không thể che dấu được.
Binh pháp nói rằng ”Đừng cho rằng kẻ thù không đến, phải dựa vào sự phòng bị”nên
ra lệnh thủ thần Vân Nam, Lưỡng Quảng nghiêm cấm bọn vong mệnh vượt biên giới,
nếu chúng xâm phạm thì huy động quân lính chống cự”
-26-9/TH17(18-10-1481).
Thực lục viết nói chiếu dụ Lê Hạo trả lại đất cho Chiêm Thành. Bấy giờ Cổ Lai
nước Chiêm Thành sai sứ tâu: “Vào tháng
tư năm Thiên Thuận thứ 5 Giao Chỉ hưng binh xâm lăng nước thần, bắt quốc vương,
phá thành trì, cướp ấn quí rồi đi. Em vương là Bàn La Trà Duyệt trốn chạy đến
Phật Linh Sơn. Vào năm Thành Hòa thứ 6 tấu xin ấn và thỉnh phong. Thiên sứ đến
nơi nhưng trước đó Bàn La Trà Duyệt đã bị Giao Chỉ bắt. Thần cùng anh là Tề Á
Ma Phất Am trốn trong rừng; sau đó người Giao sợ Thiên Triều, tự sai người tìm
kiếm con cháu người nước thần, cho trở về
đất cũ. Giới hạn từ quốc đô tới Chiêm Lạp gồm 5 xứ, lập Tề Á Ma Vật Am làm vương.
Chẳng bao lâu Tề Á Ma Vật Am chết, nay thần đang tạm giữ chức nhưng không dám tự
tiện; thỉnh cầu triều đình sai Thiên sứ mang ấn quí đến, phong chức vương. Xin
dụ người Giao trả toàn lãnh thổ nước thần gồm 27 xứ gồm 4 phủ, một châu, 22 huyện;
phía Đông tới biển Đông, phía Nam tới Chiêm Lạp, phía Tây tới núi Lê Nhân, phía
Bắc tới A Mộc Thử Bô gồm hơn 3.500 dặm, ngưỡng ơn Thiên Tửvì tiểu quốc chủ trì
việc này.”Sách dịch chú giải nói sứ Chiêm sai lầm năm tháng. Dẫn Toàn Thư
nói việc đánh bắt trà Toàn vào năm TH7(1471) không phải Thiên Thuận 5. Dẫn Minh
Thực Lục thực lục đề ngày 27-6-1472 cũng nói việc đánh bắt Trà Toàn vào năm
TH7. Việc sứ đến phong không được xảy ra năm TH10(1475) không phải TH6(1470). Thực
lục viết tiếp nói hội các quan bàn định. Thượng thư bộ Lại Duẫn Mân bàn:”Chiêm Thành bị An Nam xâm đoạt đã lâu, triều
đình thường răn dụ, An Nam chỉ trả lại 5 xứ. Nay Cổ Lai không ngại xa xôi đến tố
cáo , nếu không chấp nhận lời xin, thì không có gì an ủi người xa xôi có lòng
ngưỡng vọng. Nên sai 2 cận thần có uy vọng, giỏi về văn từ lý lẽ, đi sứ An Nam
, dụ vương nước này trả lại đất cũ của Chiêm Thành” Thực lục viết tiếp: “Chiếu dụ rằng không cần sai quan đi. Vừa lúc
sứ thần An Nam trở về, bèn sắc dụ Hạo.” Dụ rằng: “Trẫm phụng mệnh trời, coi dân như con, suốt biển trong ngoài đều đối xử
chung một lòng nhân. Mà các ngươi An Nam và Chiêm Thành thời Tần Hán trở xuống
đều là quận huyện của Trung Quốc; cũng không quá xa kinh đô. Mới đây Chiêm
Thành tố cáo ngươi hưng binh bắt sống quốc vương nước này, giết nhân dân, đoạt
thành trì đất đai. Trẫm động lòng trắc ẩn, hai lần xuống chiếu lệnh ngươi trả lại
những thứ đã lấy để hợp với nghĩa lớn.
Ngươi tâu rằng số đàn ông đàn bà bị bắt đã trở về, lại nói lãnh thổ đã yên, há
lại có việc xâm tranh. Trẫm tin lời ngươi, không nghi ngờ. Nay Cổ Lai sai người
đến thỉnh phong, hỏi lý do mới biết rằng đất này bị nước ngươi chiếm cứ, số lượng
trả lại chỉ bằng 1/5. Xét việc này thì ra ngươi âm mưu thôn tính nhưng bề ngoài
nói rằng hòa mục lân bang, thực hiện việc đại nghĩa; phải như vậy chăng? Trẫm sở
dĩ một mực sắc dụ ngươi, không phải có ý tư vị Chiêm Thành; muốn ngươi thể theo
trẫm, đối xử cùng một lòng nhân, hòa mục lân bang, thương xót nhân dân, đó là
phúc cho 2 nước. Nếu không thèm nghe, không thèm biết, há không xem đến việc đời
trước Chiêm Thành phục thù nước ngươi ư! Hãy soi kỹ việc này, những người già cả
tại nước ngươi chắc còn nhớ điều đó, đáng xét và suy nghĩ. Người xưa nói rằng một
nước có đạo lý cậy đức chứ không cậy sức. Người từ khi thụ phong đến nay không
chỉ xâm đoạt Chiêm Thành, mới đây giết sứ thần tiến cống của Mãn Lạt Gia, xâm
đen bọn tùy tùng bắt làm nô bộc; gây oán với lân quốc; họ không tố đến nơi,
ngươi tự cho là phúc đấy ư! Phàm sợ trời giữ nước, sợ kẻ lớn thương người nhỏ;
các bậc hiền triết đều làm, sao ngươi không lo làm việc đó. Khi sắc tới ngươi
nên nghĩ đến việc đoàn kết, hữu nghị với lân quốc, trả hết đất đai cũ cho Chiêm
Thành, đời đời nối dõi, không đến nỗi tự tuyệt; không những sinh linh 2 nước
không bị vướng vào họa binh đao, mà tiếng tốt của ngươi được để lại trong sử
sách, con cháu mãi mãi hưởng ân trạch vô cùng. Hãy thực hành kỹ việc này, đừng
để hối hận về sau ”
-15/10TH17(6-11-1481).
Thực lục viết nói Hành nhân Trương Cấn đi sứ Chiêm Thành mắc tội bị hạ ngục. Thực
lục viết tiếp: “Trước đó Cấn cùng Cấp Sự
Phùng Nghĩa phụng mệnh mang sắc ấn phong vương cho cháu quốc vương Chiêm ThànhTề Á Ma Vật
Am. Bọn chúng mang nhiều hàng hóa để bán kiếm lời; khi đến Quảng Đông nghe Tề Á
Ma Vật Am chết, người em là Cổ Lai sai bọn Cáp Na Ba đến xin phong. Nghĩ rằng về
không sẽ mất lời, bèn đi vội đến Chiêm Thành. Người Chiêm Thành cho biết sau
khi người cháu xin phong bị Cổ Lai giết. An Nam ban sắc ngụy lập Đề Bà Đài Gỉa
nắm quyền quốc sự. Bọn Cấn không đợi mệnh của triều đình, mang ấn trao cho Đề
Bà Đài Gia, phong làm vương. Bọn chúng được hối lộ hơn 100 lạng vàng, rồi đi
qua Mãn Lạt Gia bán hết hàng hóa để trở về. Nghĩa chết trên đường vượt biển. Cấn
trình sự việc và nạp sắc ngụy lên triều đình. Bộ Lễ hạc tội Cấn tự tiện phong
tước; đáng tội hình, bèn ra lệnh giam tại vệ Cấm Y để điều tra, biết được lời khai
như trên. Quan tòa kết vào tội đại thần tự tiện tuyển quan, xử chém. Lúc bấy giờ
sứ giả Chiêm Thành Cáp Na Ba tại quán dịch bộ Lễ, trả lời qua thông dịch rằng Cổ
Lai chính là em của vương. Tề Á Ma Vật Am chết vì bệnh không phải bị giết, người
được gọi là Đề Bà Đài Gỉa thì không biết đó là ai. Bèn ra lệnh Cáp Na Ba tạm trở
về Quảng Đông. Lệnh quan chức địa phương lấy lễ ưu đãi. Đợi sứ tạ ơn của Đề Bà
Đài Gỉa đến; thẩm xét phải trái rồi có cách đối xử riêng.”
-23/4TH18(10-5-1482).
Thực lục viết nói Hành Nhân Vương Miễn bị giam vào ngục vì tội muốn gây hấn ở
biên thùy để lợi dụng.trước đó Miễn tâu Lê Hạo không chịu thuần phục, tiếm xưng
niên hiệu, tự tiện đi chinh phạt; xin mang binh đến trừng phạt.
-16/9TH18(27-10-1482).
Thực lục viết nói cấp thuyền cho sứ A La Sa của Cổ Lai nước Chiêm Thành về nước.
Thục lục viết tiếp: “Bọn A La Sa trú tại
Quảng Đông đê đợi sứ thần Đề Bà Đài đến tạ ân, để đối chứng việc Trương Cấn tự
tiện phong tước. Đợi đã hơn 1 năm, lại không chịu được rét nên trình lên Giám
Sát Ngự sử Vương Biện, rồi viên này tâu lên, bộ Lễ lại tâu tiếp. Lệnh cho tạm
trở về nước này, đợi khi Đề Bà Đài sai người đến tạ ơn, lại đến kinh đô để đối
mặt làm chứng; nên có lệnh này.”
-18 tháng Chạp
TH19(16-1-1484)
Thục lục viết nói quốc vương An Nam giúp sứ đi sang nước Mãn Lạt Gia trôi dạt.
-20/6TH20(12-7-1484) Thục
lục viết nói tha tội cho Hữu Đô Ngự Sử Lý Dụ và hữu Phó Dô ngự Sư Đồ Dung đã nhận
tội để Trương Cấn ở trong ngục chờ sứ Chiêm đến để đối chất biết tin có sứ
Chiêm Thành tới cho người nhà đánh trống kêu oan.
-7/7TH20(28-7-1484).
Thực lục viết: “Sắc dụ quốc vương Chiêm
Thành Cổ Lai hãy phủ dụ Đề Bà Đài; lệnh nạp ấn quốc vương Chiêm Thành trước kia
trao cho y. Tha tội cho Đề Bà Đài đã nhận sắc phong ngụy của An Nam; lệnh cho
làm đầu mục của nước này.”
-5-8TH20(25-8-1484). Thực
lục viết: “ngày Kỷ Mùi ban cho người Đề
Bà Đài sai đến gồm bọn cháu là Ba La Chất, Phó Sứ Man Đê, Đại Thông Sự Mai Gỉa
Lượng, lụa màu, đoạn có sai biệt. Trước đó đầu mục Đề Bà Đài được phong nhầm làm quốc vương, sai bọn Ba La Chất
đến tạ ơn, biếu văn và sản vật địa phương đã được lệnh trả lại bọn Ba La Chất. {Bọn sứ giả} dâng biểu trình rằng cô độc, nghèo, xin ban cho y phục. Bộ
Lễ tâu rằng kẻ từ hải ngoại xa xôi đến, xin xét được gia ơn. Thiên Tử chấp nhận”
-17/8th20(6-9-1484).
Thực lục viết nói sai Lý Mãnh Dương sung chánh sứ, Diệp Ứng sung phó sứmang chiếu
thư cùng lễ vật phong cho em quốc vương Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Am là Cổ Lai làm quốc vương. Bọn Mãnh Dương tâu:
“Chiêm Thành bị Đề Bà Đài chiếm cứ lâu rồi,
vậy trước khi làm lễ phong nên cho sứ giả của Đề Bà Đài về nước, loan báo việc
triều đình định phong cho Cổ Lai để dân chúng yên lòng; người cháu của vương cũ do Đề Bà Đài đưa đến
tạ ơn, rồi bị lưu lại làm con tin tại Quảng Đông cũng nên cho về luôn. Bọn thần
định khi thuyền làm xong, thuận gió, sẽ đến nơi Cổ Lai trú đóng để truyền đọc sắc
văn.”Hoàng Thượng họp đình thần bàn bạc
và chấp thuận.”
-17/8TH20(6-9-1484). Thực lục viết nói Lê
Đức Khánh sang cống
-5/10th20(24-10-1484). Thực lục viết nói
tha cho Trương Cấn tội chết, đày làm lính thú tại vệ biên giới thuộc Quảng Tây.
Cấn đã đi sứ Chiêm Thành tự tiện phong Đề Bà Đài làm quốc vương.
-3 tháng ChạpTH21(8-1-1486). Thực lục viết “Thăng cấp sự trung khoa Lễ Lý Mãnh Dương chức
Đô cấp sự trung thuộc khoa này. Trước đó Mãnh Dương phụng mệnh sự đi sứ Chiêm
Thành, nhưng chưa đi, trú tại Quảng Đông. Bị tật xin ở nội địa trị bệnh, chờ
lành sẽ đi Chiêm Thành. Lại trình rằng sắp hết hạn 9 năm, ý không muốn đi. Nhận
chiếu chỉ cứ ở lại Quảng Đông, đến nay đã mãn trật 9 năm , nên có mệnh này.”
-12 tháng Một TH22(7-12-1486). Thực lục viết nói Giám Sát Ngự
Sử Tuần Án Quảng Đông Từ Đồng Ái tâu: “Con
quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai đánh giết
ngụy vương Đề Bà Đài do Giao Chỉ đặt lên. Giao Chỉ giận, mamg binh đến biên giới
đòi cho được mạng sống của Đề Bà Đài. Cổ Lai sợ hãi, mang vương phi, cháu
vương, bộ lạc hơn 1.000 người, cùng sản vật địa phương vượt biển đến châu Nhai,
Quảng Đông.” Thực lục viết tiếp nói
việc đưa xuống bộ Lễ bàn rồi Hoàng Thượng phán: Cổ Lai trong lúc tàn bại, còn chút hơi thừa, vượt qua vạn dặm, mang quyến
thuộc đến qui phụ Trung Quốc; tình cũng đáng thương. Nay lệnh cho các quan Tổng
Binh, Trấn Thú, Tuần Phủ lưu tâm an ủi, ban cho lương thực, chọn chỗ thích hợp
để cư trú, không để đến nỗi đói khát’ Thực lục viết tiếp “Vẫn ra lệnh nghiêm nhặt canh phòng biên giới.”
-20/Giêng TH23”13-2-1487”. Thực lục viết: “Mệnh Đô ngự sử Nam Kinh Đồ Dung đến Quảng
Đông dụ quốc vương Cổ Lai. Bọn Tổng Đốc Lưỡng Quảng Hữu đô Ngự sử quân vụ Tống
Mân tầu rằng: “Cổ Lai tại châu Nhai rất muốn được triều yết, để tố cáo sự tai hại
gây ra bỡi Giao Chỉ xâm lăng, và nói rằng số châu huyện mà Giao Chỉ hoàn lại là
những khu vực căn cỗi điêu tàn.” Nội vụ đem xuống dưới bàn, bộ Binh tâu rằng lời
của Cổ Lai và lời tâu của An Nam trước đây không giống nhau; xin ra lệnh thêm
nhiều quan đến họp bàn. Lúc này Anh quốc công Trương Mậu, Thị lang bộ Binh Hà
Tông bàn rằng việc của 2 nước khó đoán cho chính xác; nên sai 1 viên đại thần đến
khao thưởng Cổ Lai và bảo rằng triều đình thương ngươi vì nước, từ chốn xa xôi
mệt nhọc lăn lội đến đây; tuy nhiên đừng nên vào triều vì sống bên ngoài lâu kẻ
chiếm đóng có cơ hội củng cố vững vàng, còn người ở đất khách lại dễ thay đổi lòng; chi bằng về nước sớm, để yên người
trong nước. Xin gởi văn thư cho An Nam, hãy quí việc phục hưng nước bị diệt, nối
dòng họ bị đứt. Nếu chuyện ấy xảy ra không phải là ý của vương, xin sai sứ đón
Cổ Lai về để lấy lại nước, thì sẽ tự cởi bỏ mọi sự hiểu lầm. Hoàng Thượng ban
chiếu chấp thuận, và mệnh Dung khởi hành.”
HIẾU TÔNG THỰC LỤC.
-14/9TH23(30-9-1487). Thực lục viết nói Lê Năng Nhượng đi sư triều
cống.
-13-10TH23(29-10-1487). Thực lục viết nói phong vương cho con quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tại
Quảng Đông rồi hộ tống về nước và sắc
cho nước An Nam trả đất xâm chiếm. Thực lục viết nói trước kia Lý Mạnh Dương,
Diệp Ứng đi phong vương cho Chiêm Thành.
Nhưng đi chưa tới nơi thì Cổ Lai bị An Nam xâm đoạt bỏ nước theo đường biển đến
Quảng Châu và định đến triều tố cáo. Nay
sai Đồ Dung đến Quảng Đông để thu xếp việc nên làm. Đến nơi Dung tâu lên: “Theo lời của Cổ Lai thì nước đó nguyên có 8
châu, 25 huyện bị An Nam thôn tính tất cả. Vào năm Thàn Hóa, Chiêm Thành đến tố
cáo với triều đình nên được An Nam trả các xứ Bang Đô Lang, Mã Na Lý,4 châu 5
huyện. Sau đó đầu mục Chiêm Thành Đề Bà Đài làm phản theo An Nam; An Nam bèn
cho y 1 châu 3 huyện; Chiêm Thành chỉ còn 3 châu 2 huyện . Nay Đề Ba Đài đã chết,
An Nam đòi cho được mạng sống của y, ý đồ lấy hết đất như Bang Đô Lang và lập
con Đề Bà Đài làm vương. Sau đó Lũ Ma, con của Cổ Lai, cùng đầu mục Vạn Nhân
Phương cố thủ đê đợi. Ý của Cổ Lai muốn
được thụ phong tại Quảng Đông, xin bộ Binh hộ tống về nước, lại xin văn thư
công nhận cương thổ để được an toàn. Bọn thần muốn lời xin được chấp nhận, xin
mệnh bọn Mãnh Dương đến nơi này sắc phong, đến mùa Đông sai quan võ đến hộ tống
trở về nước. Bọn Mãn Dương không cần phải thân hành đến đó. Lại xin sắc cho An
Nam trả lại đất đã xâm lấn.” Bộ Binh phúc tấu đồng ý theo; bèn ban cho quốc
vương An Nam Lê Hạo sắc văn như sau: “Mới đây được các quan coi giữ Quảng Đông
tâu rằng con của quốc vương Chiêm Thành là Cổ Lai, tố cáo rằng nước này nguyên
có 8 châu như Ban Nhược, Ban Thành và 25 huyện như Đá Lập…Vào năm Thành Hòa thứ
7 nước ngươi mang quân chiếm hết số đất
nêu trên. Vào năm Thành Hòa thứ 13, trả lại 4 châu 5 huyện trong đó có
Bang Đô Lang, Mã Na Lý. Rồi đem 1 châu 3 huyện trong đó có Mai Đá Lý, Bôn Đế Ba
Đế cho tên đầu mục phản phúc Đề Bà Đài. Sau đó lại ngầm ra lệnh Đề Bà Đài mang
binh giết Cổ Lai; nên bị bộ hạ Cổ Lai giết chết. Bọn ngươi lại sai đầu mục mang
quân bức phải trả mạng Đề Bà Đài. Vì lý do đó Cổ Lai quẩn bách, mang gia thuộc
vượt biển từ xa đến tố cáo. Lại tra xét lời các ngươi trước đâytâu rằng đất đai
Chiêm Thành do thổ tù nước đó tranh giành cát cứ; nay xét lại lời tố cáo của Cổ
Lai thì ra các ngươi chiếm đoạt rồi đuổi họ đi. Nếu không vậy thì làm sao Cổ
Lai lâm vào cảnh lưu ly đến như vậy. Nhưng nước ngươi vốn xưng lễ nghĩa, há lại
ngoài mặt làm vẻ thiện, nhưng ngầm trong chứa điều ác, chỉ trang sức trên văn từ,
trên thì thiếu lòng trung thờ nước lớn, dưới thì mất nghĩa hòa mục với lân
bang. Hoặc giả vương không biết, nhưng ở dưới quan phòng thủ, đầu mục, đảng nghịch
gây oán; che dấu mọi điều đến như vậy ư!Ty Bố Chính Quảng Đông đã thông báo cho
nước ngươi, nhưng vẫn chưa nhận được phúc đáp. Nay nhân sứ trở về, đặc mệnh ban
sắc cho vương hãy đem lòng giúp đỡ kẻ hoạn nạn để đáp ứng với ý muốn phục hưng
nước bị diệt, nối dòng bị đức của triều đình; nghiêm khắc cấm chỉ những người
phòng giữ biên giới cậy mạnh hiếp người yếu, gây điều độc ác; lấy 8 châu, 25
huyện, phía ngoài núi Mao Lĩnh trả lại cho Cổ Lai, tạo nên sự hòa mục giữa lân
bang, cùng chung hưởng thái bình…(Đây là đoạn này nói việc ở biên giới Vân
Nam)... Nhứng sự việc này ngươi hãy hồi tấu
để thấy được lòng thành của ngươi. Nếu không ngay thẳng, vu khống, thì đạo trời
làm phúc được thiện, họa đến cho kẻ ác; Vương hãy nên lo xét. Hãy kính cản nghe
theo lời dụ này!””
-5 tháng Chạp TH23(19-12-1487). Thực lục viết nói nhân lên
ngôi Hoàng Thượng sai sứ ban chiếu cho Triều Tiên,; Lưu Tiền, Lữ Hiến ban chiếu
cho An Nam.
-3/2Hoằng Trị thứ nhất(15-3-1488). Thực lục viết có đoạn: “Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai sai bọn bồi thần và cháu là Cáp Na Ba
dâng biểu viết trên vàng lá, cùng đến triều cống sản vật địa phương ”
-13/10HT2(5-11-1489). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành trở về nước, lại sai em là bọn Bốc Cố Lương
thông báo cho quan đại thần coi giữ Lưỡng Quảng rằng “An Nam vãn còn chiếm cứ,
không có chỗ để ở. Xin như thời Vĩnh Lạc; mang binh che chở.””
Thực lục viết tiếp nói sự việc đem bàn. Bộ Binh tâu: “An Nam và Chiêm Thành vị trí nơi bờ biển
hoang tịch, đời đời triều cống , tổ tiên có di huấn là những nước không nên
chinh phạt. Mới đây Cổ Lai mang gia quyến đến Quảng Đông; triều đình đã giáng sắc
cho An Nam lệnh xem xét xót thương,
nhưng đến nay chưa nhận được lời tâu trở lại . Còn việc thời Vĩnh Lạc sai tướng
mang quân đi chinh phạt là do Lê Qúi Lý thoán đoạt giết vua, không phải là do sự
xâm lấn nước láng giềng. Mới đây Lê Hạo lo việc triều cống rất cẩn trọng, nhưng
Cổ Lai tố cáo nặng nề; như vậy cũng có
phần quá đáng. Nếu chỉ căn cứ lời của 1 bên, rồi mang binh mạo hiểm vượt biển để
đánh kẻ không đáng đánh, thì sai với đạo mềm dẻo với nước xa xôi. Nên lệnh các
quan trấn thủ báo lại cho Cổ Lai rằng: “Trước
đây quốc vương đến tố cáo với triều đình, đã mệnh quan đại thần giúp đỡ săn sóc
đầy đủ. Bây giờ hộ tống người của vương trở về xong. Sự tình được biết người
Giao giết con của vương là Cổ Tô Ma, vương mang binh đánh lại chúng, sự rửa thù
đã xong; sau không thấy An Nam mang quân đến đánh nước của vương. Đất của vương
trước kia mất nay đã lấy lại được; bộ lạc của vương đã tan nay đã tụ lại được;
đó là nhờ uy của Thiên Triều mới được như vậy. Nay lại kêu An Nam muốn chiếm đoạt
đất trước kia; An Nam vốn xưng là nước biết lễ nghĩa; há lại hôn âm chuốc lấy sự
trái. Nay viên quan phòng thủ nước ta trình lời của vương lên triều đình, mà lời
hồi tấu cua An Nam thì chưa đến, sự kiện chưa rõ ràng minh bạch; lai e vương oán xưa chưa bỏ được,
nói quá sự thực; ta không thể chỉ nghe riêng một bên mà quyết định. Khi lời tấu
của An Nam đến, ta sẽ xem xét, rồi báo cho ngươi hay. Vương hãy tự tin, điều
hành quản trị, an ủi nhân dân và bảo vệ đất đai. Vương cũng nên tìm cách nối lại
bang giao tốt với An Nam, quên hết đi những sự nghi ngờ. Từ xưa đến nay, không
có 1 nguyên tắc nào cho nhà cai trị không tự tin ỏ mình, lại cầu xin triều đình
mang quân đi đến từ miền xa xôi để bảo vệ họ. Sắc của Thiên tử sẽ giao cho Bốc
Cố Lang(trên kia viết “Bốc Cố Lương”),
y cũng được thưởng quà, rồi mang về nước.” ”
-15/4HT3(4-5-1490). Thực lục viết nói sứ Đàm Văn Lễ đến triều cống.
-21/5HT3(8-6-1490). Thực lục viết: “Ngày Nhâm Thân, quốc vương Chiêm Thành
Cổ Lai sai người em là Bốc Cố Lang cống sản vật địa phương, cùng tâu quốc
vương An Nam xâm chiếm đất đai, cho người chặn lấy những đồ vật như lụa nõn 2 lớp
các loại do triều dình ban cho, xin đưa
quân đến cướu giúp. Mệnh đưa xuống các ty có trách nhiệm hay biết.”
-25/5HT3(12-6-1490). Thực lục viết nói nay Lê Hạo sai sứ tấu
chương biện bạch rằng việc tại Chiêm Thành do các thổ tù tranh dành cát cứ. Vân
Nam vốn là nơi các thổ tù đã cư trú, không dám vượt biên sinh sự. Thực lục viết
tiếp sứ Chiêm tố cáo An Nam vẫn nuốn thôn tính nước này, mong Thiên Triều mang
binh che chở. Lúc bấy giờ Hoàng Bá Dương còn tại sứ quán. Mệnh quan bộ Binh đòi
tới bộ Lễ rồi dụ rằng: “hãy về báo với quốc
vương ngươi đừng nói nhiều lời, mỗi bên lo giữ gìn cương thổ để hưởng thái
bình; nếu không vậy thì một ngày nào đó triều đình nổi giận, quân Thiên Tư đến
biên cảnh như dưới thời Vĩnh Lạc thì không còn hối hận được nữa.” Thực lục
viết tiếp: “sứ giả sợ hãi rút lui”
-10/6HT3(27-6-1490).
Thực lục viết nói ban yến cùng phẩm vật cho cống sứ Chiêm Thành.
-26/7HT3(11-8-1490). Thực lục viết nói Đồ Dung đến Quảng Đông
nay đã trở về. Quốc vương Cổ Lai sai sứ Ban Bà Đế đến tạ ơn và mang phẩm vật tặng
Đồ Dung. Có chỉ dụ bảo Dung nhận. Dung từ chối nhưng không được chấp thuận.
Dung bèn dâng sớ: “Thần trước đây quyền
nghi xử trí công việc, tuy hết sức làm, có được chút hiệu quả bỡi tuân theo chỉ
thị của triều đình, do sự tính toán của Hoàng Thượng. Nay Chiêm Thành từ chỗ diệt
vong mà phục hưng, đều do uy đức của Hoàng Thượng, còn thần thì chẳng có sức ực
gì! Đáng cho Cô Lai và con cháu đời đời báo đền công đức của triều đình, sao phải
tạ ơn thần!Vả lại thần ở địa vị đứng đầu hiến quan, phong cách đòi hỏi phải trọng
kỷ luật; nếu cẩu thả nhận đồ tặng, sau này sự việc sẽ đưa ra thiên hạ, truyền
xuống hậu thế. Việc này không phải là điều vinh cho thần, mà lại lụy đến danh
tiếng của triều đình, nên đồ lễ vật này thần không dám nhận”Sách dịch ghi
chú nói hiến quan
là quan coi về hình luật. Thục lục viết tiếp nói Hoàng Tượng chấp nhận lời tâu.
Thực lục viết tiếp nói Sứ Chiêm trở về chưa xa. Bộ Lễ sai người đuổi theo mang
đầy đủ lễ vật trả lại cho Chiêm Thành nói để vua tôi nước ngoài biết được phong
cách tự xử của vị đại thần. Hoàng Thượng chấp nhận.
-16/10 HT8(2-11-1495).
Thực lục viết nói Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai sai cháu cùng bọn sứ Sa Cố Tính dâng biểu khắc trên
vàng lá, cống sản vật địa phương.
-28/10HT8(14-11-1495). Thực lục viết “Ngày Đinh Sửu quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng nước này bị An Nam
chiếm đất, giết người. Tuy được triều đình giáng sắc dụ phải hòa mục, nhưng An
Nam ngoài mặt ra vẻ thuận lòng, còn âm mưu thì ác độc không ngừng. Nên sai cháu
là Sa Cố Tính đến kinh khuyết xin đại thần đến nơi để giảng hòa, lời tâu rất bi
ai. Sự việc đưa xuống để đình thần tập hợp bàn bạc, lời bàn cho rằng từ xưa
chưa có lệ sai quan đại thần ra nước ngoài để hòa giải giữa các di. Xin giao Lưỡng
Quảng gửi văn thư cho An Nam, dụ phải hòa mục với lân bang, hoàn lại đất đã xâm chiếm. Cùng sắc dụ Cổ Lai chăm sóc
nhân dân, tu luyện võ bị, để làm kế lâu dài. Khi sự việc đã yên. Lệnh 2 nước
trình bày đầy đủ sự thực rồi tâu lên. Lời
bàn được dâng lên, ý Hoàng Thượng muốn sai quan đại thần đi xem xét. Bọn Đại Học
Sĩ Từ Phố tâu: “Nước Chiêm Thành xin sai đại thần đến nước họ, báo cho An Nam
trả lại hết đát đai đã xâm chiếm; các nha môn 2 lần hội nghị đều cho rằng không
nên làm như vậy. Bộ Lễ được yêu cầu nêu rõ vấn đề rằngThánh Thiên Tử muốn sai
quan đến dụ; nhìn lên thấy được Thánh ý đối xử chung một lòng nhân không phân
biệt Di, Hạ; tuy nhiên bọn thần phân tích bằng sự lý, thấy sách Xuân Thu dạy”Không
cai trị Di”; vì rằng sự chế ngự Di Địch và cai trị trong nước không giống nhau.
An Nam tuy tuân thuận theo lịch Chính Sóc, làm tròn chức cống, nhưng vốn là ngoại
Di; cậy hiểm và sức mạnh, thường làm chuyện xâm nhiễu ngoài vòng trật tự; các
triều đại trước cũng thường bỏ qua. Còn nước Chiêm Thành kia thì quá nhỏ mà sơ
viễn; bọn thần kính cẩn xem xét lời dạy của tổ triều Minh rằng Chiêm Thành và một
vài nước khác triều cống lại đưa hàng đến bán có nhiều sự gian trá nên từ năm Hồng
Vũ thứ 8 bị cấm, mãi đến năm Hòng Vũ thứ 12 mới được triều cống trở lại. Sau đó
vào năm Thành Hòa thứ 7 bị An Nam xâm chiếm, mấy lần đến tố cáo. Hiến Tông
Hoàng Đế mấy lần sắc Tổng trấn Lưỡng Quảng, Đô Ngự Sử khu xử. Nhưng An Nam khẳng
định rằng họ đã rả lại đất; thực ra thì chúng không khai thực và không chịu nhận
tội. Nay nếu giáng sắc, sai quan đến nước xa xôi này cũng chỉ phí lời, khó mà
thi triển uy lực của triều đình, mặt khác hải đảo rộng rộng mênh mang không có
cách gì khám xét đất đai; hơn nữa làm sao An Nam có thể tự động cải hối, bỏ cả
mối lợi hàng mấy chục năm của chúng! Nhỏ thì che dấu lỗi lầm, lớn thì chống cãi
lại; như vậy sứ thần không thể thi hành lệnh của triều đình, tưởng không nên
dương oai nơi cõi ngoài, chỉ làm giảm quốc thể, gây sự nguy hại cho địa phương.
Đến lúc đó, thì xử sự ra sao đây? Nếu bỏ qua mà không hỏi đến, thì tổn thương
uy danh; đem sự việc ra hạch hỏi thì phải hưng binh, mối lo lại càng lắm. Hãy
nghiền ngẫm những lời giáo huấn của tổ tiên: “Di Địch bốn phương,cách núi ngăn
biển, riêng biệt một góc trời; có được đất đó không đủ cung cấp cho nhu cầu, có
được dân đó không đủ để sai khiến. Nếu chúng đến quấy phá biên giưới của ta, tự
nó sẽ gặp điều không lành; nếu nó không làm hại đến Trung Quốc, mà ta kinh xuất
mang quân đi chinh phạt cũng là làm điều không lành vậy. Ta sợ con cháu sau
này, ỷ thế Trung Quốc cường thịnh, tham chiến công nhất thời, mang quân đi đánh
gây thương tổn chết chóc; điều đó không được phép làm.”Lời thánh Thiên Tử đáng
làm khuôn phép vạn đời. Cho dù hiện nay kế hoạch quốc gia hư thực như thế nào,
binh lực mạnh yếu ra sao; thì việc hao phí tài nguyên không kể hết, để tranh
giành mảnh đất cằn cỗi cây cỏ không mọc được, là việc làm vô ích, càng không thể
làm!Như việc Cáp Mật bị Thổ Phiên xâm đoạt trong hai ba mươi năm, mang quân khiển
tướng, giành đi giành lại đến nay vẫn
chưa yên. Bọn thổ quan các xứ thù nghịch nhau, không thể lấy vương pháp mà cấm
đoán được; vì thế bọn chúng đánh nhau là sự thường tình. Nay Chiêm Thành danh
hiệu vẫn như xưa, triều cống cũng không khác; việc bị xâm đoạt có hay không, thực
hay dối rá, vẫn chưa biết rõ. Tuy tình cảnh đáng thương, nhưng về lý không nên
can thiệp đến cùng. Nay quan ty chỉ dùng văn thư hiểu dụ cũng được rồi; hà tất
phải nhân danh Thiên Tử sai đại thần đi khám. Huống việc đại sự của triều đình
không thể không hỏi quần thần. Nay mọi người đều một lòng tâu là không nên,
nhưng chỉ nói chung về sự lý, chưa trình bày hết về lợi hại được mất. Bọn thần ở
địa vị thân cận, là kẻ tâm phúc; nếu không trình bày hết, vạn nhất việc xấu nảy
sinh, thì đến chết cũng không chuộc hết tội. bỡi vậy không nề rờm lời khó nghe; trình bày những
vấn đề liên quan đến Hoàng Thượng; xã tắc, sinh dân; chứ không phải muốn về hùa
với đám đông. Nếu như thời thế có thể làm được, sự việc không gây tai hại, bọn
thần đáng phải giúp Hoàng Thượng; đâu dám dâng lên những lời trái tai này.
Hoàng Thượng nghe lời, bèn theo lời bàn của quần thần”
-16/3HT10(18-4-1497).
Thực lục viết nói sứ thần Lê Tuấn đến cống.
-16 tháng Một HT11(29-11-1498). Thực lục viết nói Lê Hạo qua
đời.
-21/6HT12(28-7-1499). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng: “Vùng cảng Tân Châu của bản quốc
đã bị An An xâm đoạt từ lâu, chúng cướp giết nhân dân, mối lo chưa hết. Nay thần
già lão, khi chưa chết muốn cho con trưởng là Sa Cố Bốc Lạc được nối ngôi, mong
ngày sau có thể giữ được đất tại cảng Tân Châu.”Thiên Tử mệnh bộ Lễ, bộBinh họp
lại để bàn bạc, rồi cả 2 bộ đều trình lên rằng: “An Nam gây tai hại tại Chiêm
Thànhkhông phải mới xảy ra trong một ngày, triều đình thường nhân Chiêm Thành tố
cáo bèn gửi tỷ thư chỉ dạy, lại sai thủ thần lấy đại nghĩa trách vấn, giảng điều
họa phúc; nhưng An Nam trước sau tâu lên đều xưng rằng: “Đã tuân theo mệnh lệnh
của triều đình, trả lại hết tất cả đất đai và nhân dân; ngoài 4 châu Thăng Hoa
Tư Nghĩa đều do thổ tù cát cứ, nước tôi hoàn toàn không can thiệp” Nhưng An Nam
vừa mới đưa lời biện bạch thì Chiêm Thành lại tố cáo, khó biết đâu là thật
tình. Xin lệnh thủ thần gửi văn thư nghiêm khắc dụ An Nam chớ tham nhân dân đất đai sẽ gây nên họa
hoạn, nếu không tuân sẽ bàn định mang quân đi hỏi tội. Về việc con trưởng của
vương Chiêm Thành, thì khi cha còn sống không có lý được phong kế tập, hãy lập
lên làm Thế Tử để coi việc quốc sự; sau này như lệ định sẽ phong thế tập.” Điều
này được chấp thuận”
-27/6HT12”3-8-1499”. Thực lục viết nói bọn sứ Sa Bất Đăng Cổ Lỗ
của Chiêm Thành đến cống.
-6/8HT12”10-9-1499”. Thực lục viết nói quốc vương Chiêm
Thành Cổ Lai sai cháu Sa Bất Đăng Cổ Lỗ
cùng bon sứ thần Yển Thiện Nô Ba Địa đến cống.
-12/8 HT12”16-9-1499” Thực lục viết nói ban mũ và dây đai cho cháu
vương Chiêm Thành Sa Bất Đằng Cố Lỗ cùng bọn sứ.
-12/9HT12”16-10-1499” Thực lục viết nói cấp cho cống sứ Chiêm
Thành 60 người, mỗi người 9 đấu gạo ăn đường vì thuyền cũ bị gió bão làm tổn hại.
Sai thủ thần Lưỡng Quảng cho sửa chữa lại.
VŨ TÔNG THỰC LỤC.
-17/6HT18(17-7-1505). Thực lục viết nói con quốc vương Chiêm
Thành Sa Cố Bốc Lạc sai sứ Sa Bất Đăng Cố Lỗ đến cống, xin đại thần đến nước
này, vẫn tại các xứ cảng Tân Châu phong tước. Nhưng không tâu rõ về việc cha đã
mất, lại nói qua về số đất bị chiếm đoạt. Bọn cấp sự trung NhiệmLương Bật có lời tâu rất
dài trong đó có những đoạn: “Lời di huấn của Hoàng Tổ cho rằng Chiêm
Thành triều cống mang thương nhân đi
theo, nhiều trí trá, cần ngăn cấm.” Có đoạn viết: “Trước đây Cổ Lai đã xin phong
cho Sa Cố Bốc Lạc làm thế tử nhưng chưa được chấp nhận, nay lại xưng Cổ Lai đã
mất, thực hư khó biết.” Có đoạn viết: “Mới
đây nước này suy nhược; nên mượn việc tiến cống, sắc phong để báo động lân quốc; kỳ thực quốc vương nước
này lập hay không, không lệ thuộc vào việc phong tước hay không phong tước của
triều đình. Có đoạn viết: “nay nếu không xử trí được vấn đê lãnh thổ, lại
đến phong, nếu sứ giả bị câu lưu để chờ phân xử, không biết triều dình xử trí
như thế nào.” Thực lục viết tiếp nói việc đưa xuống, bộ Lễ họp bàn tâu: “Theo lệ quốc vương mất trước hết phải sai
người trong họ đến cáo ai, nay không làm như thế. Vả lại trong tờ tấu xin
phong của Sa Cố Bốc Lạc không nói rõ năm
tháng Cổ Lai mất; vậy nên sai ty bố Chính Quảng Đông gửi văn thư để nước này
trình báo, rồi bàn xét sau. ” Thực lục viết tiếp: “Hoàng Thượng chấp nhận.”
-13/7HT18(12-8-1505). Thực lục viết nói ban cho sứ Chiêm Thành Sa
Bất Đăng Cố Lỗ phẩm vật.
-25/Một HT18”20-12-1505.” Thực Lục viêt nói Lê Huy Mất
con Lê Nghi cáo ai.
Viết việc tháng 3-1509, ĐVSKviết: “Thánh Tông thân hành đi đánh Chiêm bắt được
Trà Toại và vợ con nó đem về nước ta an trí ở ngoài cữa Bảo Khánh gần 30 năm. Đến
đời Cảnh Thống, con là Trà Phúc mang trộm hài cốt của cha là Trà Toại trốn về
nước.” Tính ra thời điểm ở khoảng cuối triều Lê Hiến Tông(1498-1504).ĐVSK
viết tiếp: “Trà Phúc đã trở về nước sai
con là Ma La sang cầu viện nhà Minh, lại đóng nhiều thuyền, chứa nhiều lương.
Do đó, vua sai bọn Cảnh đi kinh lý.”Cửa Bảo Khánh là cữa Nam thành Thăng
Long.
-26/7Chính Đức thứ 5(30-8-1510) Thực lục viết : “Ngày Canh Thìn, người tạm coi việc nước
Chiêm Thành thế tử Cổ Sa Bốc Lạc sai chú là Sa Hệ Bà Ma đến xin phong tước,
cùng cống sản vật địa phương. Bộ Lễ tâu: “Sa Hệ Bà Ma đến kinh đô đã 1 tháng,
quan bạn tống và mang sản vật địa phương
vẫn còn đi sau , nên trị tội trì hoãn.” Chiếu ban thưởng cho Sa Cổ Bộc Lạc cùng
sứ thần như lệ. Về quan bạn tống, lệnh ty Pháp xét hỏi”
-3/8CDD5(5-9-1510). Thực lục viết: “Sai cấp sự trung bộ Lễ Vu Thông sung chánh sứ, Hành nhân Lưu Mật thuộc
ty Hành Nhân sung phó sứ phong thế tử Sa
Cổ Bộc Lạc chức quốc vương Chiêm Thành. Trước đó Tả cấp sự trung Lý Quán đến lượt
đáng phải đi, trong nội bộ sửa lệnh bắt Thông đi. Vì người làng của Quán hối lộ
cho Luu Cận, vài ngày sau bị bãi; rồi bị Thông khiếu nại; nên lại ra lệnh Quán
đi. Quán đến Từ Châu, gặp cướp cắt ngắn tóc; tâu xin dưỡng ở nhà, chờ tóc dài rồi
đi. Được chấp thuận. Sau đó Mật chết trên đường đi; Quán đến Quảng Đông tâu mấy
lần nên việc trì hoãn đến 7 năm không đi; triều đình bàn cho nước này lãnh sắc
phong mang về”
-18/8CDD5(20-9-1510). ThỰC lục viết: “Ngày Qúy Sửu, ban cho sứ thần Chiêm Thành Sa Hệ Bà Ma lụa tốt và y phục
làm bằng lụa; bọn này đến thỉnh phong. Chúng còn được ban mũ và dây đai có sai
biệt”
-12/6CDD7(24-7-1512). Thực lục viết nói quốc vương An Nam Lê Trừu{Tương
Dực} sai bọn Bồi thần Đỗ Phúc Khiêm dâng biếu cống.
-13 tháng Chạp CĐ7(19-1-1513). Thực lục viế: “Trước kia cấp sự trung khoaLễ Lý Quán, hành
nhân Lưu Mật nhận sắc để phong cho quốc vương Chiêm Thành Sa Cố Bộc Lạc. Đến Quảng
Đông Mật bị bệnh mất. Sai hành nhân Luu Văn Thụy đi thay. Thụy chưa đến, Quán
tâu rằng Chiêm Thành có những năm vào đầu triều đại đã không đến cống, mới đây
các quan bàn không nên đi xa để phong; vậy xin tuyên sắc phong tại quán dịch
Hoài Viễn tại Quảng Thành, cùng ban thưởng cho vương và phi những đồ vật; lệnh
cho sứ giả là bọn chú vương, Sa Hệ Bà Ma, lãnh mang về. Sự việc đưa qua bộ Lễ
bàn rằng Sa Cố Bộc Lạc nước Chiêm Thành xin phong đã hơn 2 năm rồi, nay vô cớ dừng
lại không phong, là sai với chế độ phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt. Nếu
trong muôn một Sa Hệ Bà Ma không tuân theo, hoặc phong người khác, rồi đi đến
tranh chấp, thì xử sự làm sao đây? Xin như cũ, sai bọn Quán đến sắc tại nước
này, để khỏi thất tín Di bên ngoài, mà thể chế của Trung Quốc cũng không tổn thất.
Hoàng Thượng chấp thuận”
-16/7CĐ10(25-8-1515). Thực lục viết: “Sứ thần Chiêm Thành bọn Lục Na Ba lãnh sắc cùng sắc phong trở về nước.
Trước đây Sa Cổ Bộc Lạc sai
sứ đến thỉnh phong, sai cấp sự trung Lý Quán mang sắc đưa đi. Quán đến Quảng
Đông, xin theo lệ năm trước đây sách phong cho Cổ Lai, cho sứ thần lãnh sách
phong trở về. Đình thàn bàn rằng: “Dã sai sứ đi trên 2 năm, nay nếu dừng lại nửa
chừng, thì không họp với đạo phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt! Nếu sứ thần
không chịu lãnh sắc phong, hoặc lãnh sắc rồi lúc trở về không trao đúng người
nhận, thì lại một lần nữa gây mối tranh chấp, lấy cách gì để xử đây? Vậy lệnh
Quán di gấp.” Quán lại tâu: “Đi sứ nơi xa cần có hướng đạo biết đường, thông dịch
viên biết ngôn ngữ và chữ viết; nay tất cả đều không có, xin bàn và phân xử.”
Đình thần bàn lại: “Lệnh các quan tuần phủ dịa phương, bằng mọi cách tìm cho được
người hướng đạo và thông dịch. Nếu không có được; chấp nhận theo lệ cũ thi
hành.” Rồi Quán lại tâu thêm: “Phụng mệnh đã hơn 5 năm , máy lần dâng sớ lên
nhưng chưa quyết định được cách đi. Ai mà chẳng biết rằng sóng gió nguy hiểm
đáng sợ; nhưng đáng lưu ý là đất Chiêm Thành từ đời Cổ Lai, sau khi bị An Nam
thôn tính, thì vị trí không rõ ràng. Y chạy trốn đến Xích Khâm bang, Đô Lang quốc;
không còn ở chỗ cũ, xét không thể đi được. Huống Cổ Lai là đầu mục của vua
Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Am, đã giết vua đoạt ngôi, vua có 3 con, hiện còn 1 người.
Theo đạo nghĩa hành động của y không đúng; xét theo sử Xuân Thu nếu không mang
quân đi hỏi tội thì cũng nên chấm dứt con đường triều cống. Thần cho rằng cho họ
lãnh sắc phong mà đi, còn giữ được điều lễ nghĩa; thì cần gì phải tìm kiếm hướng
đạo, thông dịch, rồi đình thần họp bàn vô ích.” Gặp dịp tuần án Quảng Đông ngự
sử Đinh Giai tấu tương tự như lời của Quán; bèn đem xuống họp phủ, bô, khoa đạo;
bàn như sau: “Trung Quốc đối các Di Địch, đến thì vỗ về, không đến thì cắt đứt.
Nay thế tử ở rừng núi bưng biền không đến được; vậy nên ra lệnh Tuần Án Quảng
Đông triệu chánh sứ Lục Na Ba đến dụ rằng sứ thần không thể đi xa được, rồi lấy
sách phong cùng lễ vật từ quán trao cho sứ thần mang về; như vậy không mất lòng
nước Di xa xôi, mà toàn vẹn thể chế của Tiều đình.”Chiếu chấp nhận rồi lệnh
Quán trở về”
-5/8CĐ15(16-9-1520). Thực lục viết: “ nước Chiêm Thành sai sứ thần,
đầu mục, Thông sự Phiên Sáo và chú của vua là Sa Một Đế Đại đến triều cóng”
-17/Chạp CĐ15(25-1-1521). Thực lục viết: “Quốc vương Chiêm Thành Sa Cổ Bốc Lạc sai chú
là Sa Một Đế Đại cùng bọn chánh phó sứ Sa Bát Thoát Na Biện tiến cống, tạ ơn được
sắc phong. Mỗi người được ban cho mũ, dây đai có sai biệt”
THẾ TÔNG THỰC LUC .
-3/Một Gia Tĩnh thứ 15(16-11-1536). Thực lục viết có đoạn: “Bộ Lễ tâu rằng An Nam không làm tròn chức cống
đã 20 năm nay”. “Hoàng Thượng phán:
’An Nam chiếu sứ bất thông, lại từ lâu không đến cống, phản nghịch đã rõ ràng,
hãy sai sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh thảo sai bộ Binh bàn định gấp rồi tau
lên”
-13/Một GT15(26-11-1536). Thực lục viết: “Hai bộ Lễ và Binh tâu rằng:…Hoàng Thượng
phán: “An Nam bội phản, không chịu triều cống, đáng thảo phạt; chấp nhận lời
bàn sai quan khám hỏi. Bộ Binh nên họp bàn về vấn đề chinh phạt rồi tâu lên.””
-24 tháng MộtGT15(7-12-1536). Thực lục viết: “Bộ Binh hội nghị về việc chinh thảo An Nam rồi
tâu:…Sớ dâng, {Hoàng Thượng} ban chiếu rằng có thể thi hành; vẫn ra lệnh quan
đi tra khám sự thực, rồi báo theo phương tiện nhanh.”
-1/tháng Chạp GT15(12-1-1537). Thực lục viết: “Tả thị lang bộ Hộ Đường Trụ dâng sớ can gián
về việc đánh An Nam như sau:…Thần tâu xin bỏ việc chinh phạt, đình chỉ việc sai
vệ Cấm Y đi khám, bãi bỏ lệnh dự phòng binh lương. Sơ dâng lên, bộ Binh khen
bàn mưu trung thành; riêng chiếu chỉ truyền đợi vệ Cám Y khám tâu, rồi bàn.”
-3/2 GT16(13-3-1537). Thực lục viết: “Cháu dòng dích cua vua An Nam là Lê Ninh sai
người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu gồm 10 người đến kinh đô tâu rằng:…Hoàng
Thượng theo lời bàn của bộ, ra chiếu vệ Cám Y
câu lưu bọn Trinh Duy Liêu, không được tiếp xúc với bên ngoài. Theo lệ đối
xử giống với trường họp cống sứ Triều Tiên, do Quang Lộc tự cung cấp.” Sách
dịch chú giải nói Lê Ninh là vua Trang Tông.
-12/4GT16(20-5-1537). Thực lục viết: “Ngày Canh Thân, hai bộ Lễ và Binh hội họp đình thân bàn về việc chinh
thảo An Nam tuyên bố rằng Mạc Đăng Dung có 10 tội, không thể khoan dung mà
không đánh: Tội thứ nhât….Xin ban bố quyết định, truyền bá trong ngoài, khiển
tướng luyện binh, định ngày tiến đánh. Bọn Trịnh Duy Liêu được đưa theo quân
môn để quan Tổng binh tham khảo xử dụng. Hoàng Thượng phán: “An Nam từ lâu
không đến cống tại sân đình, theo phép đáng hỏi tội. Nay nước này tâu rằng nghịch
thần Mạc ĐăngDung soán đoạt, ngăn trở đường đi cống, lại tiếm xưng danh hiệu, đặt
quan lại ngụy, tội ác đã rõ ràng, mệnh tướng xuất sư chinh thảo…(Đoạn này sắp
xếp nhân lực)…Trần Vĩ sung Du Kích tướng quân. Tất cả lãnh binh
chinh thảo, riêng đại tướng quân đợi chiếu chỉ tuyển dụng””
-24/3 GT17(22-4-1538). Thực lục viết: “Vì những lời tâu về Lê Ninh, nên tạm hoãn việc chinh phạt An Nam. Chiếu
mệnh các đốc phủ Vân Nam Lưỡng Quảng khám xét đích xác tình hình người Di, để
xem nên chiêu dụ hay chinh phạt. Nay tuần phủ Vân Nam Đô Ngự Sử Uông Văn Thịnh
truyền lịnh cho các thổ quan, hào mục An Nam
nếu đến qui thuận trước; được ban cho chức tước truyền đời. Lịnh bọn Vũ
Văn Uyên báo cựu thần nhà Lê, để mọi người hưng binh phấn đấu. Lại dụ Mạc Đăng
Dung tự trói mình qui thuận, nạp bản đồ cùng sổ hộ tịch, sẽ không bị tội chết.
Lúc đó các thổ quan, hào mục An Nan như…cùng thổ quan tại biên giới như…và những
người khácđều tình nguyện nội phụ…Lúc này con của Đăng Dung là Phương Doanh đã
lên thay thế…Phương Doanh sợ, bèn sai đầu mục bọn Phạm Chính Nghị dâng biểu xin
hàng, và gửi điệp văn cho các phủ trấn như Mộc Triều Phụ, kể đầy đủ việc nhà
Lê suy loạn…Xin được tha tội, cho theo lệ
vào triều cống. Lại xin cống bù thêm những năm tháng không đến triều. Nhân kể rằng
Lê Ninh là con cháu dòng họ Nguyễn, mang ấn giả, không đủ làm bằng. Bọn Triều
Phụ dâng biểu văn xin tha cho Phương Doanh, cho làm phiên thần; không được gây
hấn với Lê Ninh và Vũ Văn Uyên, trả lại đất ở biên giới đã xâm lấn trước kia. Lại
xin rút quân ra khỏi thác Liên Hoa, thăng thưởng cho các quan quân có công tại
đấy. Cùng lúc Triều Phụ lại báo Lê Ninh đã nhận được hịch văn gửi trước đó, tường
trình việc {họ Mạc} soán đoạt và giết vua; xa giá lánh nạn; cùng cung cấp tin tức
về số binh mã thủy bộ , trình bày con đường tiến quân. Chiếu thư phán đưa nội vụ
xuống bộ Binh tập họp phủ, bộ các quan hội bàn; rồi tâu rằng: “…Nhưng đất này
giáp với 3 tĩnh của ta, các quan Đốc, trấn quyền ngang nhau, thế lực chia rẽ, ý
kiến bất đồng không khỏi khiên chế lẫn nhau; cần tổng chỉ huy bỡi quan văn võ,
ngõ hầu thống nhất điều động, thành công mau chóng. Vậy xin suy cử Hàm Ninh hầu
Cừu Loan, thượng thư bộ Công đê đốc công trình Mao Bá Ôn nhận chức Tổng Đốc
tham tán trông coi lục quân, cho phép được tiện nghi hành sự”. Được chiếu chỉ phán: “Chấp nhận theo lời bàn””
-21/6 GT22(22-7-1543) Thực lục viết: “Vương nước Chiêm Thành Công Sa
Nhật Đế Tề sai chú là Sa Bất Đăng Cổ Lỗ dâng biếu văn khắc trên vàng lá, cống sản
vật địa phương”
-11/7 GT22(11-8-1543). ThỰC lục viết: “Sứ thần nước Chiêm Thành bọn Bất Đăng Cổ Lỗ viện dẫn lệ cũ, tấu xin cấp
cho mũ và đây đai. Lại than rằng nước này mấy lần bị An Nam đánh phá, đường sa
trở ngại không về được, xin cho người hộ
tống xuất cảnh. Chấp nhận.
MỤC TÔNG THỰC LUC.
THẦN TÔNG THỰC LUC.
HY TÔNG THỰC LUC.
HOÀI TÔNG THỰC LUC.