Là bài tường thuật hành trình du lịch của các cựu giáo sinh SưPham QuiNhơn về
MiềnTây từ SaiGòn qua LongAn, MỹTho(TrungLương), dến CaiLậy, CáiBè, vào cù lao
TânPhong, vượt TiềnGiang vào sông CôChiên rồi đến TP VĩnhLong. Tôi gọi đó là MiềnTâySôngNước.
Hành trình gợi nhớ một giai đoạn lịch sử khai phá ĐấtPhươngNam
con cháu không thể quên được. Du lịch chuyến này chẳng có gì để viết trừ phi
nhân đây nhìn lại vùng đất mẹ có một giai đoạn lịch sử dựng nước huy hoàng, để
yêu thương một phần đất nước ông cha đã để lại.
Từ năm 1600 NguyễnHoàng(NH) bỏ đất Bắc, xuôi Nam “lập quốc”, dựng lên một XứĐàngTrong giàu đẹp làm tiền đề lập ra nước ViệtNam to gấp mấy lần nước ĐạiViệt trải qua hàng mấy trăm năm to vẫn chỉ có thế, to tới Đèo CùMông là hết! Bước đầu vào năm 1611 NH đánh lấy đất ChiêmThành lập ra phủ mới là phủ PhúYên, cho chủ sự VănPhong làm lưu thủ. Năm 1620 SãiVương NguyễnPhúcNguyên gả công nương NgọcVạn cho vua ChânLạp là CheyChetta II. Người PhuYên & BìnhĐịnh vượt biển qua mặt nước ChiêmThành vào lập nghiệp ở MôXoài ĐồngNai. Năm 1629 chủ sự phủ PhúYên VănPhong làm phản. Con rể chúa Sãi là NguyễnCảnhVinh(MạcCảnhVinh là cháu MạcKínhĐiển) đánh dẹp lập ra dinh TrấnBiên. Năm 1631 chúa gả công nương NgọcKhoa cho vua ChiêmThành là Po Romê. Năm 1653 HùngLộc hầu vượt đèo HổDương(trong rặng núi ĐèoCả) đánh ChiêmThành lấy đất lập ra dinh TháiKhang(sau gọi là BìnhKhang). Năm 1658 vua ChânLạp làm phản, chúa NguyễnPhúcTần sai YếnVũ hầu ở trấn biên dinh PhúYên phá thành MôXoài, đánh bắt NặcÔngChân giải về hành tại ở QuảngBình(chúa đang đánh Trịnh ở biên giới) rồi tha tội cho về nước(GiaĐịnhThànhThôngChí(GĐTTC)- Nguyễn Tạo dịch-Nha Văn Hóa VNCH xuất bản). Năm 1674 đời NguyễnPhúcTần(1648-1687) NặcĐài(NĐ) đuổi NặcOngNon(NON). NON cầu cứu dinh TháiKhang. DươngLâm hầu chinh phạt. NĐ thua trận rồi chết. NặcThu xin hàng cho làm chính vương ở LongÚc, NON cho làm nhị vương ở SàiCôn.Năm 1679 tướng nhà Minh lưu vong TrầnThắngTài &TrầnAnBình được chúa Nguyễn cho định cử ở BiênHòa và cho tướng DươngNgạnĐịch, HoàngTấn định cư ở MyTho. MiềnTây SôngNước được xác lập từ đây, năm 1679, đời NguyễnPhúcTần. Năm 1692 NguyễnHữuKính(NHK) đánh ChiêmThành lập ra trấn ThuậnThành. Năm 1698(Năm 1998 SaiGon kỷ niệm sinh nhật 300 Năm), NHK(hay NguyễnHữuCảnh) kinh lược đất mới ChânLạp lập ra phủ GiaĐịnh: lấy đất ĐồngNai lập ra huyện PhướcLong lập ra dinh TrấnBiên, lấy đất SàiCôn lập ra huyện TânBình, dựng dinh PhiênTrấn(giữa sông VàmCỏ và sông SaiGòn. PhiênTrấn là đất của người Phiên, thổ dân ChânLạp. Đất còn lại là “MiềnTây SôngNước” hãy còn hoang vu “vô chủ”, có tướng nhà minh luu vong trấn đóng ở MỹTho! Năm 1708 cho MạcCửu làm ThốngBinh HàTiên. Cho tới năm 1732 mới lập châu ĐịnhViễn, dựng dinh LongHồ. Lị sở ở thôn AnBìnhĐông, huyện KiếnĐăng, trấn ĐịnhTường, tục gọi là đình CáiBè(GĐTTC). Từ năm 1698(lập phủ GiaĐịnh) đến năm 1732 lập dinh mới LongHồ là 34 năm, đất này mới chính thức là một đơn vị hành chính của GiaĐịnh. Dinh này ở địa đầu hẻo lánh, chỉ có một châu và một đạo quân. Các dinh kia có tới 2 huyện lận. Từ đây MiềnNam có 3 dinh(QuânĐoàn). Kết hợp với 2 dinh kia là BìnhThuận dinh và BìnhKhang dinh, chúa có 5 dinh thường đề cập trong lịch sử dưới cái tên là quân NgũDinh nhà chúa xử dụng đi chinh phạt ChânLạp. Chính cuộc trường chinh này mà người NamTrungBộ có tiếng nói và nét văn hóa giống NamKỳ. Người TrấnBiên dinh PhúYên và BìnhĐịnh một thời lãnh sứ mạng đó cũng có tiếng nói và phong cách tương tợ! Năm 1753 đời chúa VõVương NguyễnPhúcKhóat(1738-1765)cai đội ThiệnChánh hầu và tham mưu NghiBiểu hầu NguyễnCưTrinh(NCT) điều khiển quân 5 dinh kinh lược ChânLạp. Chức ĐiềuKhiển được thiết lập. Đồn binh đóng ở ChợĐiềuKhiển, BếnNghé. Năm 1754 NCT iến theo sông BátĐồng(VàmCỏTây). Đi đến đâu địch thua đến đó rồi ra sông lớn TiềnGiang hội với quân ThiênChánh hầu. 4 phủ TầmĐôn, XoàiRạp, CầuNôm, NamVang đều hàng. Cai đội ChấnLong hầu đi phủ dụ người ChiêmThành chạy qua ChânLạp. Vì lụt lớn nên quân lui binh về đồn nghỉ ngơi. Năm 1755 ThiệnChánh hầu lênh người Chiêm bỏ CaKhâm về BìnhThanh. Quân Chiêm bị quân ChânLạp tập kích. ThiệnChánh hầu không tiếp cứu người Chiêm bị giáng chức. DuChánh hầu lên thay. Năm 1756, Nặc Nguyên dâng đất TầmĐôn(MộcHóa) và SoàiRạp(VàmCỏĐông) cho DuChinh hầu. NguyễnCưTrinh cho lệ vào châu ĐịnhViễn. Bây giờ GiaĐịnh mới liền lạc với LongHồ. SoàiRạp hay LôiLạp là tên của một súc người ChânLạp(NCL) ở cữa sông VàmCỏ đổ nước vào sông SaiGòn. Khi người Việt đến đây, NCL bỏ súc lên phìa thượng lưu vẫn giữ tên súc SoàiRạp(GĐTTC). Năm 1757 nặc Nguyên mất chúa Nguyễn lập NặcNhuận và dụ phải hiến thêm đất TràVinh và BaThắc. Việc chưa xong thì NặcHinh giết NặcNhuận. Du Chính hâu đánh NặcHinh lập NặcTôn và dụ dâng đất TầmPhongLong. DuChính hầu và NghiBiểu hầu NguyễnCưTrinh tâu xin dời dinh LongHồ qua xứ TầmBao(VĩnhLong ngày nay). Lấy xứ SaDec làm đạo ĐôngKhầu, cù lao Giêng làm đạo TânChâu, xứ ChâuĐộc làm đạo ChâuĐốc. Sau đó NặcTôn dâng 5 phủ VũngThơm, CầnBột, ChânSâm, SàiMạt, LinhQuỳnh cho MạcThiênTứ(MTT). MTT đặt xứ RạchGía làm đạo KiênGiang, xứ CàMau làm đạo LongXuyên. Toàn bộ ChânLạp miệt dưới hay ThủyChânLạp(Khmer Krom) trừ đất TràVinh và BaThắc thuộc người Việt.
Năm 1772 Nguyễn CửuĐàm(NCĐ) đánh NặcNon, đưa NặcTon về
nước. Trở về GiaĐịnh NCĐ lập ra đạo TrườngĐồn ở bờ tả ngạn sông TiềnGiang. Tới đời
NguyễnVương Ánh năm 1779 vua sắp xếp, cắt xen cho 3 dinh TrấnBiên,
PhiênTrấn, LongHồ cho được liền lạc với nhau. Đạo TrườngĐồn được nâng cấp thành
dinh TruòngĐồn. Khi thành GiaĐịnh ra đời có 5 trấn thì châu ĐịnhViễn-Đạo
TrườngĐồn trở thành trấn ĐịnhTường. Bên kia sông là trấn VĩnhThanh. Phần đất
còn lại ở phía tây là trấn HàTiên. Năm trấn của Thành GiaĐịnh là trấn BiênHòa, trấn PhiênAn, trấn ĐịnhTường,
trấn VĩnhThanh(LongHồ) và trấn HàTiên. Năm 1832 đời MinhMạng trấn đổi làm tĩnh. Có 3 tĩnh
MiènĐông là BiênHòa, GiaĐịnh, ĐịnhTường. 3 tĩnh MiềnTây là VĩnhLong, AnGiang và
HàTiên. Đó là NamKỳ LụcTĩnh thời Pháp Thuộc.
Đất TrườngĐồn hiểm trở. Người TầmĐôn và SoàiRạp hay tấn
công, cướp phá khu vực BếnLức-TânAn-GòCông.
Quân đi chinh phạt Phnompenh(NamVang) không qua ngả TânAn-MỹTho để đến sông lớn
TiềnGiang hội với quân tướng nhà Minh DươngNgạnĐịch được. Quân lương theo đường
thủy từ sông BếnNghé(sông BìnhDương), qua rạch Ông, đến SaGiang(RạchCát), tới
sông PhướcLộc(họp lưu Vàm CỏĐông&Tây), ngược dòng đi về Tây rồi vào
TraGiang(Rạch GòCông), đến sông KỳHôn rồi ra sông lớn TiềnGiang, ngược dòng đến
MỹTho. Năm 1705
Nguyễn CửuVân(NCV) đánh NặcThâm, đưa NặcYêm về nước. Bình định xong, NCV cho đắp
đồn lũy, khai kinh rạch. Trước kia sông nhỏ VũngGù từ sông VàmCỏTây chạy tới
xóm ThịCai là hết. Sông nhỏ MỹTho chạy từ
sông TiềnGiang tới chợ LươngPhú(BếnTranh) thì hết. NCV cho đào kinh nối
2 sông nhỏ lại với nhau thành thủy lộ SôngBảoĐịnh(SBĐ). Di quân không đi vòng xuống
GòCông nữa. Việc khai thông cũng cắt đứt
đường tấn công của du kích quân ChânLạp(GDTTC). Tuyến SBĐ là tiền thân QL4 đi
MiềnTây thời VNCH và nay là CaoTốc SaiGòn-TrungLương.
Tuyến chiến lược thứ 2 là Đăng Giang Tân Kinh(Kinh Mới Rạch
Chanh). GiaĐịnhThành ThôngChí nói xưa con kinh nhỏ sông Chanh ở phía Đông chảy
vào sông Hưng Hóa(đoạn trung lưu Vàm Cỏ Tây). Ở phía Tây có sông Ba Lai Bắc từ
trong bưng biền chảy qua Cai Lậy đến Cái Bè rồi vào sông Tiền Giang. Khoảng giữa
nguồn cùng của 2 sông này, s. Chanh-s. Ba Lai Bắc, là vùng bùn lầy ẩm ướt cỏ lác hoang dài hơn
57 dặm. Nam có nhiều giồng gò, ruộng, vườn. Bắc có nhiều rừng sâu, chằm to lan
tới 5,6 trăm dặm. Nơi đây quân Đông Sơn tụ nghĩa rồi ra chiếm Ba Giồng chống lại
TS. Sào huyệt này làm cho quân Tây Sơn bao phen khốn đốn. Năm ẤT Tị(1785) Đô
Úy quân Tây Sơn tên là Trấn nhân có ngòi nhỏ ở 2 đầu bèn đào con kinh ngang cắt
đứt chỗ hiểm yếu, nối 2 đầu nguồn sông Chanh và Ba Lai Bắc lại với nhau. Bản đồ
người Pháp ghi Đăng Giang Tân Kinh là kin babio(Arroyo Commercial). Hai tuyến chiến lược nói trên nằm trong 2 huyện
KiếnHưng và KiếnĐăng của trấn ĐịnhTường.
Đề cập tới tính chất hiểm yếu chiến lược khu vực này không thể quên kể trận RạchGầm-SoàiMút
Nguyễn Huệ phá tan 2 vạn quân Xiêm.
Trận RạchGầm-SoàiMút năm 1785 NguyễnHuệ đại phá 2 vạn quân
Xiêm là nhờ địa hình ở 2 tuyến chiến lược này, vùng MiềnTâySôngNước mà hôm nay
chúng ta thăm viếng. Nhiều tác giả ngày
nay cho trận đánh diễn ra trên đoạn sông TiềnGiang từ cữa sông SoàiMút đến cữa
RạchGầm là không đúng. Trận đánh diễn ra ở đoạn giữa huyện KiếnHưng và KiếnĐăng
của trấn ĐịnhTường, nằm sâu trong bưng biền kinh rạch. Các tác giả không bám
sát sách ĐạiNam ThựcLục ChinhBiên(ĐNTLCB) và GiaĐịnhThành ThôngChí(GĐTTC) nên
diễn dịch chủ quan theo ý của mình. ĐNTLCB viết “đánh vài trận không thắng Nguyễn Huệ muốn rút về. Có tên phản Lê Xuân
Giác bày đem quân mạnh mai phục ở Rạch Gầm Xoài Mút rồi dụ quân Xiêm lại đánh.”
GĐTTC trong lúc viết về cương vực HàTiên cũng chỉ viết “Khi quân Xiêm kéo đến Rạch Gầm,
do không thuộc địa thế chỗ nào hiểm, chỗ nào không, lại bị giặc lừa SÂU vào đường cùng rồi bị phục binh
vừa thủy vừa bộ đổ ra chận đánh, cả cánh quân đều thua chết hết”. Cả
hai(ĐNTLTB và GĐTTC) chẳng nói chiến trường diễn ra trên khúc sông lớn như nhiều
tác giả ngày nay(QuânSử-QuânĐội NDVN) chủ quan mô tả. Các tác giả không chú ý đến
câu ‘’ rồi dụ quân Xiêm lại đánh’’
hay câu “lại bị giặc lừa SÂU vào đường
cùng rồi bị phục binh vừa thủy vừa bộ đổ ra chận đánh”. Tức không nhận ra
được yếu tố địa lợi của trận đánh, vùng chiến lược đã xảy ra bao trận đánh
trong quá trình lịch sử hình thành ĐấtPhươngNam như đề cập trên đây. Ba Giồng
là khu vực hiểm trở. Sau này gọi là đất TrườngĐồn, châu ĐịnhViễn.
Hành trình thăm viếng. Không có gì để viết. Chỉ vài dòng mô
tả tuyến đi. The Sinh Tourist đưa chúng tôi từ đường ĐềThám Q1 vào cao tốc
SaiGon-TrungLương giống như QL cao tốc ở MiềnTrung hay QL TrungLương đi MỹThuận,
chỉ khác là nền đất cao hơn. Nơi nào cao bằng ruộng vườn ở 2 bên thì có rào chắn
người, vật, xe cộ địa phương ngang ngửa băng qua. Tới CaiLậy thì xe quẹo Trái
vào đường tránh thị xã . Quẹo Trái một lần nữa, xe nhập vào QL1A đi tới ngả 3
CáiBè. Queọ trái, xe đến bến. Xuống xe,
lội bộ qua cầu CáiBè1 bắc qua nhánh lớn của sông CáiBè, vào đường dẫn ra bến đò
là chỗ họp lưu 2 nhánh sông lớn CáiBè và phụ lưu nhỏ hơn bên TảNgạn. Đoạn họp
lưu rộng thênh thang là khu ChợNổi CáiBè, hôm nay vắng khách. Nhà thờ CáiBè với
gác chuông cao nghều nghệu sừng sững đứng ở chỗ họp lưu. Đối diện lại là cữa sông
CáiBè(CSCB) mở vào sông TiềnGiang. Cầu CáiBè 2 là cầu bêtong dài bắc qua
CSCB. Tài công đưa chúng tôi ra sông Tiền
rồi quày trở lại vào sông CáiBè. Ngoặc Phải vào phụ lưu, lên bờ TảNgạn thăm cơ
sở nuôi ong TưĐăng. Lội bộ trên con dường làng về phía cữa sông thăm cữa hàng
làm bánh kẹo HảiVân. Xuống đò xuôi dòng ra cữa, vào sông Tiền. Ngoặc trái, xuôi
dòng TiềnGiang, đò đưa chúng tôi đổ bộ lên địa đầu cù lao TânPhong nằm đối diện
thị xã CáiBè. Ở đây có điểm du lịch sinh
thái 9 Thương là khu nhà vườn trồng cây ăn trái. Dùng cơm trưa và dạo khu nhà
vườn. Khi ĐăngGiangTânKinh((Arroyo Commercial) khai thông thì CáiBè là cửa ngỏ
giao thương với nội địa Campuchia qua ngả MộcHóa KiếnTường, thông về MiềnĐông qua ngả TânAn-BếnLức-Kinh
ChợĐệm-kinh RuộtNgựa(TàuHũ) về GiaĐịnh và từ đây thâm nhập vào HậuGiang qua ngả
VĩnhLong. ChợNổi CáiBè hình thành để đáp ứng giao thươmg.
Xuống đò, vượt dòng TiềnGiang để đến thành phố VĩnhLong, xưa
kia là trấn thành LongHồ. Qua khỏi cù lao TânPhong chúng tôi thấy bên tay trái
là một cữa sông rộng thênh thang. Đó là thượng khẩu sông HàmLuông mà hạ khẩu là
cữa HàmLuông đỏ ra biển ở phía tây cữa BaLai. Dần dần ghe chúng tôi tấp vào bờ
hữu ngạn sông Tiền để rồi vào rạch ĐồngPhú. Rạch này nối sông Tiền với sông
CôChiên(SCC). Đoạn đầu SCC ngày xưa gọi là sông LongHồ(SLH). Lên bờ SLH, đoàn
chúng tôi đặt chân lên ThànhPhố VĩnhLong y chang như ngày xưa quân NgũDinh bước
vào trấn thành LongHồ vậy.
Để cảm nhận cái quan cảnh ngày xưa cha ông chúng ta chinh phục
MiềnTây SôngNước, tôi trích 2 đoạn trong GĐTTC mô tả khu vực đoàn chúng tôi vừa
đi qua: CùLao TânCù(TânPhong) và SôngLongHồ:
TrịnhHoàiĐức(THĐ) viết “Ở phía bắc
sông HàmLuông, cù lao uốn khúc, nổi lên giữa mặt kính hồ, như một vành cong nét
vẽ chân mày nằm ngang. Cành trúc rủ la đà quét mặt sông, ngọn cau dựng đứng khều
tầng mây. Ở đó có dân cư của 2 thôn TânCù va BìnhAn sinh sống. Cảnh vật khác hẳn
nơi chợ búa ồn ào.”Và xế về phía TâyNam là sông LongHồ(Đoạn đàu sông
CôChiên). THĐ mô tả sông LongHồ: “Sông này chảy đến quanh co, chảy đi vòng
vèo, dòng ngang uốn lượn, nước đọng trong ngần, bốn mùa ngon ngọt, cồn cát cao
thấp xa gần, thôn xóm la liệt khắp Đông Tây, ẩn hiện như rừng, như động, như vực
như đầm, nên mới gọi là Long Hồ. Chảy bao quanh phía bắc trấn thành, rồi hợp
lưu với TiềnGiang, mở thành một cách hùng vĩ cái hào thiên tạo.”Địa đầu giải
đất kẹp giữa sông HàmLuông và sông CôChiên, thuộc tĩnh VĩnhLong, rộng thênh
thang như nổi lên trên “mặt kính hồ”(cù lao AnBình),
đẹp mê hồn mà cổ nhân ngày xưa gọi là hồ rồng, “LongHồ.”Đoạn cuối giải đất thuộc
tĩnh BếnTre. Nước sông Tiền chảy tới cù lao AnBình nằm đối diện VĩnhLong như dừng lại. Nước chia ra đổ vào 3 nhánh sông: CôChiên, HàmLuông và nhánh TiềnGiang chảy thẳng về MỹTho. Vì thế nơi đây nước lênh láng và lặng lờ trông như một cái hồ. Tên LongHồ ra đời là vậy. Sông LongHồ là đoạn đầu S. CôChiên.
Ra khỏi bến cảng LongHồ, chúng tôi bước vào đường 1/5 dẫn vào chợ VĩnhLong mua sắm trái cây. Trở ra bến cảng, ngắm lại một lần nữa MộtMiềnSôngNước mênh mông xưa nay(chỗ 3 con sông lớn giáp ranh nhau: SôngTiền-HàmLuông-CôChiên). Qua bên khia đường vào khu DuLịch CửuLong chờ xe. Lên xe về SaiGòn qua ngả cầu MỹThuận. Chấm dứt một hành trình. Một ngày mùa hè 2019, Ongbatampy.
Chùm ảnh ở The SinhTourist DeTham Sg
0 nhận xét:
Đăng nhận xét