SAU BÀI VIẾT CÓ ĐĂNG HÌNH ẢNH
Địa hình và phong thủy. Lấy câu tục ngữ & ca
dao(TN&CD) mà tác giả A. Laborde viết trong ĐôThành HiếuCổ số 4/1929 để nói
lên tín ngưỡng phong thủy trong xây dựng của người xưa. Viết về PhúYên trong mục
Proverbes et Phrases Populaires(TN&CD) ông rút ra từ sách địa lý câu “les Montagnes basses et les Rivieres peu
profondes sont signes que filles sont amoureuses et que garcons sont tra. ”Nghĩa
là nơi nào núi chẳng cao và sông chẳng sâu là dấu hiệu sinh ra nữ đa dâm và nam đa trá. Tức phong thổ sản
sinh người dân chẳng ra gì. Ngược lại nơi nào núi cao sông sâu thì sản sinh ra anh
hùng hào kiệt. Xứ kinh thành Huế sau này và ThànhHóaChâu xưa kia đạt được phong
thủy đó. Xây dựng hay tán mộ ở Đất Nước này sẽ sản sinh ra anh hùng hào kiệt.
Nguồn TảTrạch của sông Hương(thời ÔChâu CậnLục gọi là KimTrà) xuất phát từ nguồn
ở giữa 2 dãy núi BachMã có đỉnh cao 1460m và dãy núi BàNà có đỉnh cao 1480m. Hai
dãy núi này làm ranh giới cho 2 tĩnh QuảngNam-ThừaThiên. Sông sâu là sông
LinhGiang(SLG). SLG bắt đầu từ chỗ 2
sông ĐanĐiền và KimTrà hợp lưu(NgảBaSình) tới
chỗ nước đổ vào phá. Nguồn ĐanĐiền
cũng xuất phát từ chốn thâm sơn cùng cốc ở trên dãy TrườngSơn.
Tới bây giờ nhờ không ảnh(Googles Maps 3d ) tôi mởi nhận ra
phong thủy một bên sâu sông một bên núi cao của xứ ThànhHóaChâu và KinhThànhHuế.
Ngày xưa đọc ÔChâu CậnLục mô tả ThànhHóaChâu tôi chẳng hiểu mô tê gì: “Thành ở địa phận huyện ĐanĐiền, phía Tây có
con sông ĐanĐiền chảy qua. Sông ấy lại có nhánh nhỏ chảy vào trong thành. Bên
phải sông là nơi đặt nha môn học đô thừa phủ của phủ TriệuPhong. SôngKimTrà chảy
ở phía Nam Kinh Thành, phá phía Bắc, đầm phía Nam, ước muôn nghìn khoảnh, bao bọc
bốn mặt là sông nước chảy quanh. Thành cao trăm trĩ, sừng sững như đám mây dài.
Thế đất tụ tập, thợ trời tạo ra nơi hiểm yếu vậy.”
Nhờ quan sát tận mắt trong chuyến tham quan CầuNgói
ThanhToàn-RúChá vừa rồi và đối chiếu bản
đồ không ảnh Googles Maps 3d, tôi nhận ra đoạn văn mô tả nói trên không sai so
với thực địa tôi quan sát được. Trong bài “DiTích
CầuNgói ThanhToàn” tôi có kết luận
KinhThànhHuế là một thứ vùng sông nước như GiaĐịnhThành thu nhỏ. Nơi đây là một
thứ ĐấtNước SôngSâu. Nay quan sát khu tâm linh các lăng của vua Nguyễn tôi lại
nhận ra một thứ ĐấtNước SơnCao.
Phía trước núi NgựBình là vùng sơn cước, nơi khởi nguyên
cho một thứ xứ núi CaoSơn thâm u huyền
bí. Ngay từ xa xưa ĐiệnHònChén đã là chốn tâm linh của người Champa thờ thần MẹĐấtNước
PoNagar. Phiên âm theo tiếng Hán là ThiênY A Na. Nếu kinh đô ĐồngDương ở QuảngNam
có trung tâm tâm linh(TTTL) TràKiệu, kinh đô ĐồBàn ở BìnhĐinh có TTTL LinhSơn
thì đất LôDung(tên gọi sông Hương thời quận NhậtNam đời nhà Hán đô hộ) có TTTL
ĐiệnHònChén. LinhSơn là nơi em TràToàn đến ẩn náu rồi sai sứ sang nhà Minh tố
giác ĐạiViệt xâm chiếm đất đai, hạ thành ĐồBàn, bắt vua anh là TràToàn năm
1472(MinhThựcLục thực lục ngày 21-1-1475). ThiênNam TứChí LộĐồThư trang 97 ghi
tên là PhậtTĩnhSơn.
Ngày nay nhà Nguyễn chọn đoạn TrungLưu của sông Hương đối diện
ĐiệnHònChén tán mộ phần cho các vua. Quần
thể lăng tẩm ở Huế trở thành khu tâm linh của KinhThànhHuế(KTH).
Lâu nay người ta chỉ biết núi NgựBình chỉ là bức bình phong
cho KTH nhưng nay nhờ không ảnh ta mới hiểu ra vị trí phong thủy của nó trong
vùng SôngSâu-NúiCao. Nó nằm trên trục Bắc-Nam, hơi lệch về Tây ở Bắc và sang
Đông ở Nam một tí. Trục chạy suốt từ PháTam Giang-ThànhHóaChâu-ĐạiNội-NúiNgựBình-NgảBa
Nguồn Hữu/TảTrạch, rồi trực chỉ đến 2 dãy NúiBạchMã và BàNà. Qua đó ta thấy
hình ảnh địa hình một xứ SôngSâu-NúiCao mà vùng sơn cước NúiNgựBình là bản lề
giữa 2 TháiCực đó. Một bên là sông sâu với trung tâm văn hóa đô hội ồn ào. Bên
kia thuộc khu vực tâm linh tịch mịch huyền bí. Đứng trên lầu NgọMôn trông về NgựBình
là hướng về một TháiCực bên kia, một thế giới tâm linh huyền bí. Nơi đó các tiền
nhân triều Nguyễn đang an nghỉ.
LôDung là con sông linh thiêng nổi tiếng trong HánSử và ViệtSử. Nó khởi nguồn từ 2 dãy núi cao hiểm trở ngăn chia 2 tĩnh nói trên đến điểm sông sâu nguy hiểm là PháTamGiang với cữa Eo nổi tiếng sóng gió nguy hiểm trong SửViệt. “Yêu em anh cũng muốn vô/ Sợ TruôngNhàHồ sợ PháTamGiang.” Đầu bên kia núi cao cũng hiểm trở nổi tiếng. Đó là xứ LâmẤp của Huyện TượngLâm, huyện cực nam của quận NhậtNam đời HánĐôHộ. Trong ĐàoHoàngTruyện có đoạn báo cáo địa hình hiểm yếu của nước LâẤp như sau: “Tướng Di(Tướng của xứ mọi rợ)”là PhạmHùng NướcLâmẤp đời đời trốn tránh làm giặc, tự xưng vương, nhiều lần đánh phá trăm họ...bè đảng cậy nhau, cậy thế đất hiểm không phục. Trước còn nước Ngô(ĐôngNgô thời TamQuốc) nhiều lần đánh phá. ĐàoHoàng từng đóng giữ hơn 10 năm đã trừ được những tên đầu sỏ. Nhưng ở chốn hang cùng núi sâu vẫn còn có kẻ trốn tranh.”Ngày nay CaoTốc CamLộ-LaSơn từ QuảngTrị chạy đến NgảBa Tả/HữuTrạch rồi theo nguồn TảTrach chạy trong thung lũng giữa 2 dãy núi nói trên đi vào cảng ĐàNẵng, không cần phải qua ĐèoHảiVân. CaoTốc xuyên thủng "chốn hang cùng núi sâu" để đi vào LâmẤp một thời bí hiểm thâm u.
Trục phong thủy hiểm yếu nói trên là hình ảnh con sông Hương(LôDung
hay KimTrà). Ngày nay nhờ không ảnh ta nhận ra trục hiểm yếu này. Thầy địa lý
ngày xưa chỉ dùng địa bàn thôi mà sao khám phá ra được trục này để xây dựng
thành PhúXuân và sau trở thành KinhThànhHuế?
Một vòng qua các lăng tẩm.
Hôm 03.04.23 sau khi
ra khỏi NộiThành Huế, đoàn chúng tôi sang bờ HữuNgạn sông Hương dùng bữa trưa.
Chiều đi thăm lăng tẩm. Ghé thăm SiêuThị ĐặtSản Huế rồi lên đường theo QL49 đi
về khu lăng tẩm. Thế đất dâng cao dần lên. Xe ngoặc Phải rồi chạy hướng TâyBắc.
Lúc ấy con đường ở trên cao độ khá cao. Xe đi vào vùng sơn cước. Chúng tôi nhìn
xuống thấy NúiNgựBình ở bên tay phải và ở dưới thấp. Hướng dẫn viên(HDV) bắt đầu
giới thiệu NúiNgựBình. Khi xe ngoặc Trái chuẩn bị chạy cặp kè theo bờ HữuNgạn
đoạn TrungLưu sông Hương, HDV chỉ về phía tay trái giới thiệu lăng ThiệuTrị. Chạy
trên đoạn QL49 cặp kè bờ sông Hương HDV chỉ về phía tay trái giới thiệu lăng
GiaLong. Chạy một hồi thì xe đến cầu vượt và cầu bắt qua sông Hương ở dưới NgảBa Tả/HữuTrạch
một tí. Qua bên kia cầu, ngoặc Trái theo cầu vượt xe chạy xuống bờ TảNgạn của
nhánh HữuTrạch thăm lăng MinhMạng. Trở lại bờ HữuNgạn đoạn TrungLưu đoàn đi thăm lăng
KhảiĐịnh, đi về xuôi đến thăm lăng TựĐức rồi thăm làng làm nhan.
Lăng tẩm một cái nhìn khái quát. Lăng là nơi thờ vua ở khu vực tán vua đã băng hà. Tôi chưa thăm những lăng nhỏ nên không rõ cấu trúc. Cấu trúc lăng lớn như lăng MinhMạng, ĐồngKhánh và TừĐức có nét giống nhau và giống các miếu thờ khác như VănMiếu thờ bia tiến sĩ ở HàNội, ThếMiếu thờ các vua Nguyễn ở KinhThànhHuế. Từ ngoài vào là cổng. Tiếp đến là cái lầu kiểu gác chuông lầu trổng gọi là gác hay các ví dụ HuêVăn các ở VănMiếu, HiểnLinh các ở ThếMiếu vân vân. Cái gác hay là các trông xuống miếu thờ vua hay miếu thờ bia tiến sĩ. Lăng KhảiĐịnh vì ngược dốc lên cao nên cái gác này chỉ một mặt trông ra cổng, không có mặt trông xuống miếu thờ. Giữa cổng-gác-nhà thờ là khoảng sân rộng. Khoảng sân rộng có thể có hàng tượng tượng voi ngựa và khanh tướng(quan văn quan võ) đứng chầu. LăngTựĐức mới trùng tu nên không có hàng tượng này. LăngMinhMạng và KhảiĐịnh thì có. Sau cái các ở lăng KhảiĐịnh sân không rộng ra mà lại có 2 bậc. Khách phải leo 2 bậc cấp mới đến sân miếu thờ.
Như vậy chỉ có lăng MinhMạng ở xa nhất. Lăng TựĐức
ở gần nhất. Trừ lăng MinhMạng, các lăng của vua nguyễn tập trung ở bờ HữuNgạn
đoạn TrungLưu sông Hương, đối diện với ĐiệnHònChén. Thăm làng làm nhan xong thì
đoàn trờ về khách sạn và ăn tồi. Kết
thúc hành trình. Ongtampy.
Một vòng siêu thị.
Ra khỏi siêu thị, đi thăm lăng tẩm.
Trạm kiểm soát vé.
Đường vào sân chầu
Trèo lên sân cái các.
Qua khỏi cái các là miếu thờ vua.
Trên đường ra về.
Thăm lăng KhảiĐịnh.
Lên cổng số 2
Tới sân chầu
Lên tầng miếu thờ vua.
Leo trở xuống 2 bậc cấp tới sân chầu
Hồ trước mặt lăng.
Cổng từ sân các trông xuống hồ.
Sân trước mặt cái cac(cái gác)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét