Ở PhúYên hiện nay sông BànThạch là hệ sông nước ở phía nam cánh đồng TuyHòa. Trục chính là sông BánhLái phát nguyên ở trên rặng ĐạiLãnh phân ranh PhúYên-KhánhHòa và những nhánh nhỏ là các rạch gom nước ở cánh đồng này đổ vào hay các suối khe trên rặng núi đó đổ xuống. Hệ sông nước khác là sông Ba(SB). SB phát nguyên trên cao nguyên Kontum. Đến GiaLai nhận nước của sông Ayunpa từ TâyBắc BanMêThuộc đổ đến. Ngoặc về Đông, SB chảy ra cữa ĐàRằng. Có nhà thủy văn ở PhúYên cho 2 hệ sông nước này có liên hệ với nhau. Cầu nối là sông BaHai nối sông BánhLái vào sông ĐồngBò của hệ SB. Từ đây tôi nảy sinh đưa ra giả thuyết BànThạchGiang là tiền thân của sông Ba.
Bằng chứng thấy ở trên các bản đồ cổ.
Bản đồ ĐôngNamÁ do người HàLan in
năm 1594
cho thấy XứĐàngTrong(Nam MiềnTrung ViệtNam) có con sông dài nhất đổ nước vào BiểnĐông
ở chỗ Cap Varella(MuiĐiện hay Mũi ĐạiLãnh). Đó là BànThạchGiang(trong ThiênNam
TứChí LộĐồThư chú thích như thế). Phía bắc con sông có ghi chú là “Champa.”Năm 1594 là năm GiápNgọ. Năm
1592 TrịnhTùng(TT) lấy được ĐôngĐô từ tay nhà Mạc. Năm 1593 NguyễnHoàng(NH)
theo về. Năm này Đoan quận công NguyễnHoàng vẽ GiápNgọ BìnhNam đồ dâng lên triều
LêThếTông(sách HồngĐức BảnĐồ, Bộ QuốcGia GiaóDục Saigon 1962, phần 4 trang
138). Năm 1594 phía bắc con sông đó người HàLan cho đất ấy thuộc ChiêmThành
đúng như lịch sử của ta. Tiếp theo TT lo bình định biên giới phía nam. Năm 1596
TT tưởng thướng chức tước cho quan biên phòng phía nam là trấn biên
LươngVănChánh(LVC) làm quan ở huyện TuyViễn. Rồi năm 1597 sai LVC đi khai
hoang, lập ấp ở các xứ CùMông, BàĐài, BàDiễn, BàNiêu(2 văn bản nói trên được
lưu giữ ở miếu thờ LVC ở TuyHòa). Trước đó TT cũng làm việc tương tự là năm
1573 diệt được LêCậpĐệ và vua LêAnhTông. Biên giới phía bắc được củng cố. TT cho
LVC năm 1578 đánh vào ThànhHồ để củng cố biên giới phía nam(ĐạiNam LiệtTruyện
TiềnBiên).
ThiênNam TứChi LộĐồThư(TNTCLĐT) và GiápNgọ
BìnhNamĐồ(GNBNĐ) là bộ bản đồ của các thừa tuyên của ĐạiViệt được in trong sách
HồngĐức BảnĐồ nói trên. Các bản đồ đó do nhiều tác giả biên soạn ở nhiều thời kỳ
khác nhau. Các tác giả sao lục phiên bản cũ rồi cập nhật địa danh mới, tình tiết
mới cho phù họp hiểu biết mới. Khó định được móc thời gian trước sau ở các bản đồ.
Bản đồ trang 98 ở TNTCLĐT về
phía bắc vẽ sông núi phủ PhúYên. Ở cực
nam vẽ một con sông với chú thích là BànThạch Giang(45) đổ nước ra ở cữa ĂnNăn
hải môn(38) gần biểu tượng bia HồngĐức làm ranh cho 2 phủ PhúYên và phủ TháiKhang.
Ơ giữa phủ PhúYên là một cái vũng lớn ghi chú là vũng BaLinh(43). Đầu phía bắc
có một con sông mà cữa của nó đối diện với một cù lao chú thích là cù lao MâyNước(51).
Đối chiếu địa danh này ở bản đồ GNBNĐ trang 157 ta biết tên con sông đó là sông
KỳLộ(ông Cái) đổ nước ra cữa XuânĐài hải môn(16). Ban đồ TNTCLĐT tr98 không cho
thấy sông ở chính giữa phủ là sông ĐàRằng tương ứng với vị trí vũng BaLinh.
Các bản đồ trong GNBNĐ cho
thấy các tác giả hiểu rõ địa hình các phủ nhiều hơn. Chi tiết mới được phát hiện.
Các tác giả sao lục các phiên bản bản đồ mới hơn, chú giải rõ hơn. Bản đồ GNBNĐ
tr157 có ghi chú nói là CùMông hải môn(20). Ở trên cao là ghi chú đèo CùMông(18).
Ghi chú nói là XuânĐài hải môn(16). Bên trên thấy ghi chú nói là VũngChích
sơn(15). VũngChích nhận ra là vịnh XuânĐài. Ở bản đồ TNTCLĐT tr97 ghi chú số 9
nói là CùMông sơn. Kế phía nam vẽ một cái vịnh nhận ra là đầm CùNông. Tiếp theo
có ghi chú nói là vũng Chích(3) nhận ra là vịnh XuânĐài. Kế bên là XuânĐài
giang(2). Trở lại GNBNĐ tr157. Bên trên ghi chú XuânĐài hải môn(16) thấy vẽ 2
con sông họp lưu lại. Sông chạy thẳng lên Bắc nhận ra là sông KỳLộ(sông Cái).
Sông kia chạy về hướng TâyBắc nhận ra là sông TràBươn chạy đến vùng tiếp cận có
ghi chú nói là huyện TuyHòa(2).
Bản đồ GNBNĐ tr158 có ghi
chú nói là MâyNước hải môn(31) nhận ra là cữa vịnh XuânĐài. Ở giữa có ghi chú
nói là PhuYên hải môn thâm(27). Con sông tương ứng có ghi chú nói là ĐạiGiang
thiển(23). Cữa sông thì sâu nhưng sông thì lớn và cạn. Ghi chú số 24 nói là Mai
thị, số 25 nói là sa(cát) ở bờ bắc của con sông. Xa về phía bắc vẽ dãy núi hình
cung nhận ra là núi ở phía bắc cánh đồng TuyHòa. Tất cả mô tả giúp ta nhận ra
đây là đoạn sông ĐàRằng. Phía cực nam của phủ PhúYên có ghi chú nói là RănRăn hải
môn(20) có âm hưởng như ĂnNăn hải môn(38) như ở bản đồ TNTCLĐT tr98. Hai địa
danh ĂnNăn và RănRăn này ở một số tác giả viết về PhúYên thời XứĐàngTrong dùng
chữ QuốcNgữ phôi thai có nghĩa là “ĐàRằng.”Đây
là ghi chú lầm lẫn vị trí không gian của các tác giả viết ở thời phôi thai XứĐàngTrong.
Con sông tương ứng với cữa RănRăn(20) ở bản đồ GNBNĐ tr158 được nhận ra là sông
BànThạch(không phảỉ là sông ĐàRằng) có ghi chú TràNông sơn ở bờ HữuNgạn và gần
biểu tượng bia HồngĐức phân ranh 2 phủ PhúYên và TháiKhang. Con sông này thì ngắn
hơn sông ở giữa phủ nói là ĐạiGiang thì dài và còn kéo dài đi về hướng ĐôngBắc,
Sông này nhận ra là sông Ba.
Kết luận.
Qua bộ bản đồ TNTCLĐT và GNBNĐ in trong sách HồngĐức BảnĐồ nói trên ta đưa ra
giả thuyết đoạn sông ĐàRằng chỉ xuất hiện sau này ở bộ bản đồ GNBNĐ. Bản đồ
TNTCLĐT tr98 tác giả sao lục phiên bản quá cũ nên không có con sông ở giữa phủ
PhúYên. BànThạchGiang ở trong bản đồ này, TNTCLĐT tr98, chảy một lèo từ xa ra
thẳng tới biển ở cưa ĂnNăn hải môn(38) như con sông ở bản đồ HàLan in năm 1594
chảy ra cữa ở Cap Varela(sông Ba). Về sau trung lưu của con sông này, sông Ba,
đổi dòng, chảy thẳng giữa cánh đồng TuyHòa, bỏ đoạn hạ lưu còn lại là sông
BànThạch ngày nay. Chỗ tách ra ở đoạn cuối sông ĐồngBò. Trước đó sông Ba chảy
hướng TâyBắc-ĐôngNam đến họp lưu với sông ĐồngBò, tiếp tục chảy theo hướng đó rồi
phân 2 nhánh đi qua đèo TrổĐó. Một nhánh vòng qua núi Hương. Nhánh kía chảy thẳng
gọi là sông BaHai. Tới HòaĐồng 2 nhánh họp lưu với sông BánhLái sinh ra sông
BànThạch. Một trận đại hồng thủy xảy ra. Đèo TrổĐó làm nghẽn dòng sông ĐồngBò,
một đoạn của sông Ba, phần còn lại của sông đổi dòng sang ĐôngBắc, xé rào chảy
thẳng và tràn lan ở trên cao giữa cánh đồng TuyHòa vào vũng BaLinh nên mới có ĐạiGiang
thiển và hải môn thâm như mô tả trên đây. Sông ĐàRằng đoạt giang, lấy hết nước
của sông ĐồngBò(ĐB) và sông Ba. Nhánh sông ĐB chảy vòng qua núi Hương tồn tại
như một di tích là BầuHương. Nhánh kia thu hẹp lại là sông BaHai.
Bằng chứng thấy ở di tích ThànhHồ. Hình ảnh di
tích thấy ở bản đồ dăng trong ĐôThành HiếuCổ số 4 năm thứ16 tháng 10-12 năm
1929. Người ta thấy sông ĐaRằng phá đổ nữa thành ở phía nam. Biết phá nửa cái
thành là nhờ đối chiếu với di tích GhềnhBà(DTGB) còn sót lại ở bờ nam của sông.
DTGB là trung tâm tín ngưỡng. Trung tâm này phải ở ngay trong thành hay ít nhất
sát thành. Thường ở thủ phủ quan trọng của người Chăm thường có một cái thành
kèm theo một trung tâm tín ngưỡng như thế. Kinh đô ĐồngDương thì có trung tâm
TràKiệu. Kinh đô ĐồBàn thì có PhậtTĩnh sơn(26) thấy ở bản đồ GNBNĐ tr157. Hiện
bảo tàng PhuYên lưu giữ khoảng trên dưới 10 tượng chăm ở di tích này và số còn
lại được lưu giữ ở bảo tàng QuảngNam. Di tích ThànhHồ có giá trị như thế nên ta
tin PhúYên là tiểu vương thứ 6(Aryaru)
sau 5 tiêu vương Amaravati(Huế), Indrapura(ĐồngDương ở QuảngNam), , Vijaya(ĐồBàn),
Khauthara(KhánhHòa), Panduranga(PhanRang). Tiểu vương Aryaru mà một số tác giả
mới đưa ra gần đây là một tiểu vương có thực! Khi ThànhHồ tồn tại thì không có
sông ĐàRằng. Sông Ba chảy ở phía nam thành, chô núi Hương. Năm 1578 Lương Văn
Chánh đánh vào ThànhHồ. Gỉa thiết thành này tồn tại đên thời điểm đó. Trên bản
đồ này giữa ThànhHồ và di tích GànhBà là một vùng đất nổi lên như là một cai đảo
ở giữa sông. Đây cũng là bằng chứng sông ĐàRằng mới “xé rào”chảy qua ThànhHồ gần
đây thôi.
Bằng chứng địa chất và địa hình. Trước nhất ta thấy sông ĐàRằng là đoạn sông trẻ.
sông trẻ không chảy ở địa thế trũng mà chảy ở trên cao. Sông trẻ chảy thẳng,
không uốn lượn. Dòng sông lớn và đầy sạn và cát. Một thời ở phố TuyHòa có bến sạn
chuyên tập kết sạn ở sông ĐàRằng để bán. Cát thì khỏi chê. Ngay ở cữa sông cát cũng
tụ thành núi. Sông BànThạch, đoạn hạ lưu BànThạchGiang nói ở trên thì già hơn.
Dòng sông uốn lượn, tích lũy phù sa sinh
ra bùn đất. Ta nghĩ sông BànThạch ngày nay là hạ lưu của BànThạchGiang ngày xưa
phát nguyên từ Kontum như bản đồ TNTCLĐT tr98 hay bản đồ do người HàLan vẽ năm
1594.
Sông ĐàRằng trẻ, mới xuất hiện
sau này vì chảy ở trên đường đỉnh thay vì chay theo đường đáy. Nhìn bản đồ
JmHenthorn ta thấy cánh đồng Nam TuyHòa nghiêng về phía ĐôngNam. Các dòng chảy
chảy theo hướng này, đổ nước vào sông BánhLái. Ngày xưa sông Bâ đổ nước theo hướng
đó. Chảy tới sông ĐồngBò, sông Ba theo hạ lưu của nó rồi họp lưu với sông
BánhLái để đổ nước ra mũi Cap Varela (ĐạiLãnh) như các bản đồ cổ đã vẽ. Sông
ĐaRẳng chảy trên đường đỉnh được chứng thực bỡi cách thiết kế kinh mương của ThủyNông
ĐồngCam. Chẳng phải 2 trục chính kinh mương chạy dọc theo 2 bờ TảHữu ngạn sông
ĐàRằng để đổ nước vào 2 cánh đồng Bắc, Nam TuyHòa? Về mặt địa chất ta tin dòng
sông ĐàRằng nằm trên đường đỉnh của một vùng trũng ngày xưa gọi là vũng BaLinh
như nói ở trên. Nổi lên chung quanh vùng trũng này là núi non thuộc hệ hỏa
nham(Rạng ĐạiLanh và dãy núi VânHòa). Trong khi ở trục chính giữa vùng trũng
này nổi lên 2 trái núi sa thạch(đèo TrổĐó) và diệp thạch(núi NhạnTháp) hình
dung được đường đỉnh của vùng trũng trầm tích này.
Tính chất sông trẻ của sông
ĐàRằng thấy rõ ở đoạn sông này nối vào SôngBa(đoạn từ cữa sông ĐồngBò tơi HòaThắng
giáp ranh HòaĐịnh). Bản đồ AMS của quân đội HoaKỳ(bản đồ LiênThạch & bản đồ
ĐồngCam) cho thấy đoạn sông này rất trẻ. Phía thượng lưu ghi là sông ĐạiGiang
như GNBNĐ trang 158 ghi là ĐạiGiang thiển và hạ lưu ghi Sông ĐàRằng. Đoạn sông
rất rộng, cạn và đầy cát. Bản đồ cho thấy đoạn sông chảy qua một “cái khe”cạn
giữa núi GànhBà(có 3 đỉnh. Đỉnh cao nhất cao 28m) và núi DinhÔng. Dân làng MỹThạnhTrung nói ở giữa sông, phía
trên núi GànhBà, có khối đá nổi. Nước chảy đến đây thì chia dòng. Khi nước chảy
nghiêng về phía PhúSen, khi nghiêng về phía NúiGànhBà khiến bên lở bên bồi thường
xuyên đổi phía, khi bên PhúSen khi bên GànhBà. Đoạn sông trẻ này khác với đoạn
sông già là di tích BầuHương(BH). BH sâu, hẹp, đầy bùn đất. Sông cũ(BH) chảy ở
khe phia nam, chỗ đèo TrổĐó. Giữa 2 khe là đường đỉnh, chính là tuyến kênh thủy
nông ĐồngCam Nam(QL29).
Bằng chứng khác. Bộ sách ĐạiNam viết về
PhúYên nói sông BànThạch có nhiều cá sấu. Nhà vua đưa ra lệ giết được cá sấu được
thưởng như lệ giết cọp để giảm tai nạn cho khách du qua đây. Trong sách Ức Trai
Dư ĐịaChí NguyễnTrãi có kể chuyện LýThườngKiệt đánh ChếCủ, kéo quân qua sông
PhanĐịnh tiếp giáp với phủ HoàiNhơn gặp đoàn cá sấu cản trở đường tiến quân. Tiếp
giáp với phủ HoàiNhân nên nghi sông PhanĐịnh có thể là sông BànThạch vì quân
truy kích băt ChếCủ ở tận biên giới ChiêmThành. Hạ lưu sông BànThạch là vùng
sông nước hiểm trở, có nhiều đầm lầy, có nhiều cá sấu chứng tỏ là khúc sông lớn
và già.
Tên sông ĐàRằng mới có sau
này. Trong Hành Trình ĐắcLộ, ĐắcLộ(ĐL) viết về PhuYên có viết tên sông Ran Ran
mà một số tác giả cho là tên sông ĐàRằng. ĐL hoạt động ở PhuYên khoảng thập
niên 1640s. Tên sông ĐàRằng có thể xuất hiện vào thời vua Chiêm thuộc người gốc
người Thượng ChuRu ở nam núi LangBiang, vua Po Romê(1627-1651), người đồng thời
với chủ sự VănPhong(1611-1629) đang cai
quản đất PhúYên. Năm 1611 NguyễnHoàng cho chủ sự VănPhong đánh lấy đất lập ra một
phủ mới, phủ PhúYên, cho VănPhong làm lưu thủ. Năm 1629 noi gương người hùng Po
RoMê, chủ sự VănPhong làm phản đánh lấy PhuYên. Chúa NguyễnPhúcNguyên phải đánh dẹp rồi cho người con
rể của chúa là NguyễnPhướcVinh(NguyễnCảnhVinh) lên thay. Lúc này ĐL đến PhuYên truyền giáo. ĐL viết nói vợ trấn
thủ này rất mộ đạo(HànhTrình ĐắcLộ). Các tộc người nam núi LangBiang gọi sông suối
có chữ “Da”ở đàng trước như ĐaNhim, DaDung, Da Oai khác với các chủng tộc ở
phía bắc gọi sông suối là krong vd Krong Hinh, Krong Nang.
Nếu giả thiết nói trên đúng
thì sông ĐàRằng xuất hiện thời PhúYên “lập quốc”, thời chủ sự VănPhong mà các
tác giả ngày nay cho là người Chăm cũng như HùngLộc đánh lấy đất KhánhHòa cho
chúa Nguyễn cũng là người Chăm. Nêu 2
chi tiết này để thấy công to lớn của chúa Nguyễn mở đất PhươngNam. Chúa không
“hồ đồ”xua quân chiếm đất mà “xâm thực” rất khéo léo, mượn người bản địa an
dân. Một ngày tháng Tư 2021, Ongtampy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét