Thứ Năm, 25 tháng 6, 2015

CUU GSSPQN HOP BAN 2015 Hanh Trinh Ngay 28-5 cua đoan Tuy Hoa.



Thăm bán đảo
Sơn Trà và Hội An.
Sáng ngày 28, làm 1 vòng thể dục từ đường Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Tri Phương tới đường Nguyễn Văn Linh. Trở về lên đường thăm viếng bán đảo Sơn Chà theo lộ trình: Nguyễn Hữu Thọ, Duy Tân, 2 tháng 9, cầu Rồng, Võ Văn Kiệt, Võ Nguyên Giáp(Hoàng Sa), lên chùa Linh Ứng ở trên bán đảo Sơn Chà. Lộ trình trở về ghé qua ga xe lửa để lấy vé mai về Quảng Ngãi: Xuống đồi Sơn Trà, quẹo Phải theo đường Lê Đức Thọ, qua cầu Thuận Phước trông xuống cảng Tiên Sa, Nguyễn Tất Thành, Ông Ích Khiêm, Hải Phòng, vào ga. Lại theo đường Hải Phòng đi về Lý Thái Tổ, Nguyễn Tri Phương, về lại nhà khách 206 đường Nguyễn Hữu Thọ nghỉ trưa. Chiều mát xe lại rước đi thăm cầu Rồng và cầu Hàn theo lộ Trình: Nguyễn Hữu Thọ chạy thẳng, quẹo Trái sang đường 30-4, 2 tháng 9, thẳng đến xem cầu Rồng và cầu Hàn. Đi ngược lại, ngoặc Trái qua cầu Tiên Sơn, Hồ Xuân Hương, ngoặc Phải theo đường Võ Văn Kiệt(Hoàng Sa) cặp biển mà xuôi Nam. Vào xem các cơ sở sản xuất Mỹ Nghệ đồ đá ở Non Nước. Tiếp tục xuôi Nam,  ngoắc Phải vào đường Huyền Trân Công Chúa. Dừng lại chân trái đồi lớn nhất có trụ đá đề “­Ngũ Hành Sơn.” Ngũ Hành Sơn là núi này chăng?
Núi Ngũ Hành Sơn trước triều Minh Mạng gọi là núi Non Nước nhưng chẳng non nước, chẳng ngũ hành sơn ở chốn núi non hiểm hóc sơn thủy chi cả. Tất cả trông như “cục”,  như “hòn” từ trên trời cao lạc lõng rơi xuống khoảng mênh mông khu dân cư nhà cữa đông đúc thành 5 quả núi. Một lớn và 4 nhỏ trông như núi đất thấp lè tè từ xa nhìn chẳng hấp dẫn gì cả. Ngày xưa trông chúng giống như 5 cái “cục” mà cổ nhân nói không biết từ đâu trồi lên khỏi bãi cát mênh mông. Một bên là sông nước bao la, một bên là biển cả. Bỡi thế mới có truyền thuyết nhân gian kể: “Thuở trời đất còn hỗn mang, vợ Long Vương vượt biển Đông vào đây đẻ trứng trên bãi cát, nhờ thần Kim Quy bảo vệ. Qua nhiều năm tháng hấp thụ khí âm dương, một hôm, trời nổi sấm sét, đất chuyển ầm ầm, trứng rồng nứt vỏ. Một Long Nữ chào đời, bay thẳng về trời. Những mảnh vỏ trứng biến thành năm ngọn núi.” Ngũ Hành Sơn trông như 5 mảnh vỡ của một cái trứng úp xuống bãi cát!
Trên xe tôi nói Ngũ Hành Sơn chẳng đẹp đẽ gì hơn núi Tháp Nhạn ở quê tôi. Bác tài ngồi cạnh bảo Ngũ Hành Sơn là cái núi lớn kia kìa và ông đếm 5 cái đỉnh ở trên đó. 3 đỉnh rõ ràng ở trên chóp và 2 đầu hình như cũng là 2 cái đỉnh. Núi lớn đó là Ngũ Hành Sơn! Thật vậy đến nơi quả có cái trụ đá tại chân trái núi lớn ghi rành rành hàng chữ “Ngũ Hành Sơn”. Du khách khác có lẽ cũng tin Ngũ Hành Sơn là trái núi này vì chỉ núi đó là núi lớn,  trên đó mới có hang động và chùa chiền.
Về nhà tra sách vở thì không phải như vậy. 5 trái núi, một lớn, một nhỏ và nằm ở 1 bên đường ngăn cách 3 quả kia nhỏ hơn ở phía bên kia đường mới là Ngũ Hành Sơn. Vua Minh Mạng gọi như thế và đặt 5 tên Thổ Sơn, Kim Sơn, Hỏa Sơn, Thủy Sơn và Mộc Sơn đàng hoàng. Thủy Sơn lớn nhất có 3 đỉnh trông như 3 ngôi sao(Tam Thai) của chòm sao Đại Hùng(sao cày). Đỉnh phía Bắc cao nhất gọi là Thượng Thai. Đỉnh giữa thấp hơn gọi là Trung Thai và đỉnh phía Nam thấp nhất gọi là Hạ Thai, nơi chùa Linh Ứng tọa lạc. Trên Thủy Sơn mới có hang động và chùa chiền đàng hoàng. Các núi kia thì nhỏ hơn nhiều và có hình dáng như Hỏa Sơn là hòn kép gồm 1 hòn âm và 1 hòn đương, ở phía TâyNam. Kim Sơn trông như 1 quả chuông úp sấp, nằm giữa Hỏa và Thổ Sơn. Thổ Sơn ở phía TâyBắc, là ngọn núi đất thấp và dài nhất trông như con rồng nằm dài trên bãi cát. Mộc Sơn thì nằm cùng phía và song song với Thủy Sơn ở phía ĐôngNam. Thủy Sơn có tên là núi Chùa hay núi Tam Thai, cao 106m, rộng khoảng 15 hecta.
Lộ trình “khám phá” núi Tam Thai. Phòng vé đóng cữa nên chúng tôi không dùng thang máy lên thẳng thăm chùa Linh Ứng. Nhờ thế mà có dịp lội bộ trèo từ đỉnh này sang đỉnh kia mà chiêm ngưỡng cho hết cái vẻ đẹp non nước của núi này như sách vở đã mô tả. Từ sườn ĐôngNam leo lên 114 bậc đá, ngoặc Trái lên 4 bậc, rồi 24 bậc thì đến nền chùa Linh Ứng. Bước lên 1 bậc thì vào sân chùa. Tổng cọng 143 bậc.  Sách vở thì ghi 123 bậc. Chùa có vẻ cổ kính, có non bộ, tượng Phật cao 10m(năm 1993) và tháp Xá Lợi cao 30m(năm 1997). Ra tới mép sân thì thấy cầu thang máy. Lùi lại, ra cữa bước xuống vài bậc cấp quẹo sang Trái bước xuống 6 bậc rồi trèo lên 17 bậc. Bên Trái đường đi thấy 1 cái tháp nhỏ. Trèo lên 23 bậc thì tới 1 lối rẽ sang bên Trái là lối đến Vọng Hải Đài. Hết địa phận đỉnh thứ 3(Hạ Thai). Quẹo Phải trèo lên 68 bậc đá thì đến hang đá và cổng trời thuộc đỉnh thứ 2. Hang có 2 cổng đá tự nhiên hẹp, hình vòm. Vào cổng số 1, trông phía trước mặt là lỗ hổng thông ra bầu trời. Đó là Cổng Trời. Quẹo Phải theo lối đi lát đá uốn cong dẫn đến cổng số 2. Ra khỏi cổng. Bước xuống 12 bậc cấp thì tới một cổng gạch. Có phải nơi đây là giới hạn ngọn thứ 2(Trung Thai). Trên đường đi, trông về bên tay Trái chúng tôi thấy cữa động Vân Phong nằm cheo leo trên vách đá thuộc địa phận đỉnh thứ 2. Đỉnh thứ nhất(Thượng Thai) thì có Vọng Giang Đài. Chúng tôi không đến đó. Tiếp tục xuống 19 bậc tới ngả 3. Trước mặt có 2 lối rẽ. Đây là địa phận đỉnh thứ 3. Rẽ sang Phải, trèo lên 4 bậc rồi trèo lên 5 bậc, xuống 3 bậc thì đến động Hoa Nghiêm. Quẹo Trái, xuống 29 bậc cấp thì tới động Huyền Không hình tròn, lớn và có chùa ở bên trong. Nóc động có lỗ thông lên trời lấy ánh sáng. Quẹo Phải tới 1 cái hốc có thạch nhũ và nước ngầm rỉ ra gọi là khu “Bầu Vú”. Về nhà tra sách mới hay động Hoa Nghiêm chỉ là 1 cái động nhỏ dẫn tới động lớn hơn là động Huyền Không(ĐHK). Sách viết nói phải bước xuống hơn 20 bậc cấp nằm sâu hơn động Hoa Nghiêm khoảng 5m thì tới ĐHK. Trở lại ngả 3, theo lối đi thứ 2 ở bên Trái hồi nãy đã mô tả, du khách đi ngang qua bên hông chùa Tam Thai. Đứng trước mặt chùa nhìn lên thì thấy chùa in hình lên 1 đỉnh núi. Xuống 3 bậc cấp thì tới 1 cái cổng chùa trông xuống đường đi lên chùa Tam Thai. Còn chúng tôi thì đang lội ngược xuống. Xuống 19 bậc, tới cái dốc lát đá. Trèo xuống 117 bậc thì tới 1 cái dốc nữa. Xuống 16 bậc cấp thì tới cái dốc thứ 3. Xuống 14 bậc cấp thì tới 1 cái sân rộng mở ra đường cái ở sườn phía TâyBắc. Bên Trái thấy có cữa hàng “Cơ Sở Khắc Đá Nguyễn Hùng”; bên Phải có biển đề “CSKĐ Phan Chi Lăng”. Tổng cộng chúng tôi leo xuống 169 bậc cấp và 3 cái dốc. Rõ ràng chùa Tam Thai mằm ở cao độ cao hơn chùa Linh Ứng. Lên xe, theo đường ven biển xuôi Nam chúng tôi đến Hội An xẩm tối để ngắm cảnh hoa đèn về đêm.
Hội An nằm  sát mép bờ Tả Ngạn cữa Đại của sông Thu Bồn. Nơi này ngày xưa là trung tâm thương mại Quốc Tế của xứ Đàng Trong. Xa hơn về phía Tây là thủ phủ Quảng Nam của chúa Nguyễn Phúc Nguyên có tên là dinh trấn Thanh Chiêm một thời dành cho hoàng tử thứ 6 của chúa Tiên Nguyễn Hoàng cai trị xứ Quảng. Về xa xưa đây là xứ Đại Chiêm với 3 cữa bể nổi danh trong lịch sử Chiêm Thành. Cữa Cu Đê ở Nam Đèo Hải Vân, cữa Tiểu Áp(Cựu Tọa) là cữa sông Hàn(thượng lưu có tên là sông Vu Gia) và cữa Đại Áp(Tân Áp) của sông Thu Bồn. Đối diện chúng là các cù Lao Sơn Chà và cù lao Chàm mang đầy di tích chủng tộc Champa. Cuối cùng ở phía Nam là sông Tam Kỳ. 3 con sông này(sông Hàn, Thu Bồn, Tam Kỳ) có nhánh thông thương với nhau tạo thành đường thủy nội địa(ĐTNĐ). Ngày xưa giao thông đường bộ khó khăn. Ông bà ta ưa dùng ĐTNĐ để di chuyển được nhiều quân và nhiều khí tài lương thực. Và phù sa của 3 con sông ấy đã bồi đắp thành 1 giải giang sơn giàu có gọi là xứ Đại Chiêm. Ở đó có kinh đô Đồng Dương nổi tiếng của dân tộc Champa và sau này là trung tâm kinh tế của chúa Nguyễn. Nay chúng tôi đi xem di tích phố cổ Hội An của chúa Nguyễn đã để lại cho con cháu chiêm nghiệm lại một thời vàng son của nhà chúa.
Theo con đường mang tên có vẻ lịch sử, đường Hoàng Sa, xe bon bon dọc biển chạy song song với tuyến đường thủy nội địa(ĐTNĐ) xưa nói trên. Quẹo mặt, xe chạy qua một cái cầu bắc qua tuyến ĐTNĐ cũ, sông Đê Vong(bản đồ Jm Henthorn). Ngày nay đoạn sông nối sông Đê Vong với sông Cổ Cò ở phía Tây Ngũ Hoành Sơn bị bồi lấp mất đường lưu thông. Xe tiến vào đường Hai Bà Trưng để đến thành phố cổ Hội An qua các đường: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo rồi dừng lại ở chỗ gọi là Quãng Trường Sông Hoài. Sông Hoài nghe thấy thương thương và hoài cổ nhưng tra cứu mãi không thấy bản đồ nào ghi tên “sông Hoài” là sông nào cả. Lấy “sông hoài” làm từ khóa mượn google tìm hộ. Từ dữ liệu liên quan mà google cho, ta đoán được sông Hoài là nhánh nhỏ gần bờ của sông Thu Bồn chảy len qua các cù lao gần bờ Tả Ngạn kề với phố cổ Hội An. Ở đó có những chiếc cầu nhỏ nối liền đảo với thành phố. Chúng tôi đi dạo phố cổ ngợp trời đèn lồng và đèn trang trí muôn màu sắc, ghé một quán thưởng thức món ăn đặc sản cao lâu  trông như bánh canh ăn khô, không chan nước. Sợi cao lâu không giống bún, bánh phở, hủ tiếu hay mì. Sợi trông giống sợi bánh canh nhưng hơi cưng cứng, có mùi thơm như bánh tro. Cao lầu làm từ gạo ngâm với nước tro bếp cho vàng rồi xay thành bột cán mỏng, xắt thành sợi, đem hấp rồi phơi, phơi rồi hấp nhiều lần như thế là cả bí mật nhà nghề. Và đặc biệt chỉ có 1 nơi chuyên sản xuất nó. Toàn vùng chỉ có nước ở 1 cái giếng mới sản xuất được sợi cao lầu. Thay vì xắt sợi thì xắt thành miếng ô vuông rồi chiên dòn. Miếng chiên dòn cũng được bỏ vào tô cao lầu cùng với miếng thịt. Không phải thịt luộc thái mỏng. Cũng không phải thịt thưng hay thịt nướng mà có vẻ như thịt quay nhưng có hương vị lạ. Ăn xong thì dạo phố chán chê rồi lên xe về Đà Nẵng trong sự luyến tiếc phố cổ khôn nguôi.Click vào link sau đây xem video minh họa chuyến viếng thăm:
Hai ngày ở Đà Nẵng
Nguyễn Thị Thảo

0 nhận xét:

Đăng nhận xét