![]() |
Di tản qua Tuy Hòa cuối tháng 3/1975 |
1-Chiều Qua Tuy Hòa là đề tựa 1 ca khúc của nhạc sĩ(NS) Nguyễn Đức Quang
sau năm 1975. NS xuất thân Đại Học Đà Lạt, trưởng hướng đạo, tác giả ca khúc
“Hi Vọng Đã Vươn Lên Màn Đêm”, “Quê Hương Ngạo Nghễ” mà sinh viên tranh đấu một
thời ở Miền Nam VN trong phong trào du ca, Phản Chiến dùng. Phong trào và nhiều
thứ khác dẫn đến “Ngày Tàn Cuộc Chiến”năm 1975. Không tình cờ, chắc tác giả nghĩ
kỹ nên chọn đúng thời điểm và địa danh vẽ bức tranh điêu tàn “Ngày Tàn Cuộc Chiến” qua bài hát “Chiều Qua Tuy Hòa.” Hai hình ảnh tương
phản trước sau 1975 ở Tuy Hòa, trên đường Thiên Lý xuôi Nam chạy loạn năm 1975 được vẽ ra.
2-Móc thời gian và không gian. Khởi sự ngày tàn là trận thất thủ Ban Mê Thuộc chiều
ngày 10-3-1975.
Dân trào ra khỏi thành phố chạy loạn như kiến vỡ ổ. Ngày 14-3 TT Thiệu quyết định bỏ Cao Nguyên
về Duyên Hải. Liên Tĩnh Lộ 7B về Tuy Hòa được chọn lựa. Liên Đoàn Công Binh chiến
đấu đi đầu mở đường. Liên đoàn Biệt Động quân theo bảo vệ. Liên Đoàn Thiết Giáp
cản đầu và bọc hậu đoàn quân đi. Đoàn Quân Dân Chính dắt díu kéo nhau ra đi trốn
khỏi Cao Nguyên khói lửa mịt mù. Đoàn
người rồng rắn, bồng bế, khênh cõng, đổ về xuôi ngày 16-3. Chiều 17-3 đến thị xã Phú Bổn(Cheo Reo).
Nút chặn ở phía Đông chân đèo Tuna khóa lại. Suốt trên 12 tiếng đồng hồ từ chiều
17 Liên Đoàn 7 Biệt Động quân cùng pháo binh, không quân và thiết giáp cố nhổ
các chốt bao quanh thị xã. Sáng 18-3 nút chặn ở phía Đông được nhổ, đoàn người tiếp
tục về xuôi. Ngày 19-3 nút chặn Phú Túc khóa lại mặc dù công binh
thành công thực hiện được 3 cây cầu(Bùi
Anh Trinh, báo Tổ Quốc) nối liền mạch sống: Gia cố được cầu Ae Nu nối bờ Nam
Phú Bổn qua bờ Bắc Phú Túc trên ông Ea Yunpa để chiến xa M41 và M48 qua được.
Hai ngày thì bắc được cầu Lơ Bắc qua sông Cà Lúi ở thị xã Phú Túc để đoàn người
tiếp cận được bờ Tả Ngạn sông Ba và 1 ngày bắc xong cầu phao ở chỗ hẹp nhất nối
bờ Tả sang bên bờ Hữu sông Ba ở phía dưới cữa sông Cà Lúi và sông Krong Năng, gần
ranh Phú Yên-Phú Bổn, cách sân bay Đông Tác hơn 20 phút trực thăng bay. Từ đây
hoặc theo đường 5B xuyên qua giữa đồng bằng Phú Yên mà về Tuy Hòa hay qua Khánh
Dương về với Khánh Hòa. Đường 7B từ Củng Sơn đi Tuy Hòa bên bở Tả Ngạn từ lâu bị
bỏ hoang đầy rẫy mìn bẩy do quân Nam Hàn cài đặt. Một cầu phao thứ 2 ở Thạnh Hội
đối diện với Nhiễu Giang cũng được bắc qua sông Ba. Bộ Tư Lịnh Tiền Phương của
Quân Đoàn 2 bỏ Phú Bổn về đóng bản doanh tại tiểu khu Phú Yên tiếp tục chỉ huy
các lực lượng xung kích và các phi đội trực thăng võ trang trong nổ lực triệt hạ
các chốt chặn. Nhưng rủi ro thay, định mệnh đã an bài nơi này, Huyết Lộ 7B là
nơi đánh dấu khởi điểm Đàn Chim Nam Việt Nam vỡ tổ. Biết bao cánh chim từ đây phiêu bạc giang hồ
trên khắp 5 châu bốn biến hay phiêu bạc ở ngay trong lòng nội địa sau này.
Xe cơ giới và sự chen lấn nút tắt cầu phao. Đoàn người
bỏ hết xe cộ khí tài, từ đây họ vạch lá vén gai đói khát xuyên rừng lội bộ mà
đi. Vợ lạc chồng, mẹ mất con, anh em ly tán. Có người “biệt tích giang hồ”
không biết thân xác gửi gắm về đâu. Thân nhân tùy tiện “cứ lấy ngày” mà giỗ. Thùy
Dương theo mẹ mất anh Lê Cao Nguyên, lạc cha là 1 biệt động quân bị thương tích
trong cảnh hỗn độn này(“Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân” của Phạm Tín An
Ninh).
Bốn mươi chiến xa M18 và M41 cùng đoàn quân và xe bị kẹt
lại. Mười ba chiến xa M113 qua được bên kia sông tiếp tục về xuôi. Mười ngày
sau có lệnh di tản, ngày 25-3-1975 họ về tới thị xã Tuy Hòa và được điều động
quay trở lại tấn công vào các nút chặn. Ngày
26 biệt động quân của liên đoàn 7 tấn công vào nút chặn Phú Thứ trên LTL 5B là nút sau cùng. 7g sáng ngày 1-4-1975 phe bên kia pháo kích vào
thị xã Tuy Hòa. Tiểu khu và tĩnh đường là mục tiêu chính. Chuẩn tướng Trần Văn
Cẩm gọi báo thiếu tướng tư lịnh Quân Đoàn 2 Phạm Văn Phú ở Nha Trang rồi rút ra
khỏi doanh trại, gọi không quân đem trực thăng đến cứu nhưng không thành. Bộ chỉ
huy bị bắt. Lực lượng quân sự tại Phú Yên bị xóa sổ. Trên đỉnh núi Tháp Nhạn để
lại 2 xác tử sĩ bên ụ súng Pháo Binh. Các trại A30, A20, Tổng Trại 5(gồm 52,
53, 54) được mở ra đón nhận đám tàn quân quan xấu số.
Chiều 1-4 phòng tuyến Khánh Dương do lữ đoàn 3 nhảy dù
cùng 1 trung đoàn của sư đoàn 23 tái thành lập trấn giữ thất thủ. Sư đoàn 23 lui
lập phòng tuyến ở Động Ba Thìn ở Cam Ranh. Ngày 31-3 Bình Định cùng sư đoàn 22
thất thủ. Phần lớn lãnh thổ và 2 sư đoàn(22 và 23) của Quân Đoàn2 bị mất, ngày 2-4 tướng
Phú nhận lệnh bàn giao lãnh thổ còn lại cho Quân Đoàn 3 dù ông còn lại 1 số tiểu
khu để tiếp tục chiến đấu. Ngày 29 tướng
Phú uống thuốc tự tử và mất trưa 30-4-1975 tại nhà thương Đồn Đất(Grall) SaiGon. Tổng
cọng có 5 tướng lãnh tự sát và 1 đại tá không
chịu đầu hàng, bị xử bắn ở Cần Thơ cho ngày tàn của 1 Quân Lực, Quân Lực
mà 1 thời cho là ngụy, tham sống sợ chết, hết bám chân đế quốc Pháp rồi đế quốc
Mỹ, chẳng có lý tưởng gì cả.
3-Hình ảnh chạy loạn. Rất ít hình ảnh chạy loạn trên huyết lộ đường 7B chông
gai này được tìm thấy trên mạng. Có lẽ người trong cuộc bất ngờ, quá hoảng loạn
trong sự mất mát tang hoang, không còn lòng dạ thời gian ghi lại hình ảnh truyền
lại sau này. Trên mạng chỉ tìm được vài bài viết, 1 chuyện ngắn, và 1 ca khúc nói trên minh họa được cảnh chạy
loạn trên tuyến đường này.
Bài viết “Cuộc Di Tản Đầy Máu Và Nước Mắt.”
Đ.tá Trịnh Tiếu viết. Đêm CN, 16-3 một đoàn xe vận tải dài thoòng đèn sáng
choang từng cái một rời Pleiku như đi chơi(dẫn lời phóng viên Nguyễn Tú báo Chính Luận). Từng đoàn người dân đi bộ dài như rắng
bò 2 bên đường song song với đoàn quân xa. Trẻ em và con thơ được chất lên xe
bò và người kéo đi(dẫn lời
1 nữ tu). Người ta cố
thuê xe bằng mọi giá. Chờ sửa chữa cầu bắc qua ông Ea Yunpa đoàn người dồn đống
ở thị xã Phú Bổn(Cheo Reo) trong đói khát(có người chỉ xách áo chạy theo), sợ địch ở đàng sau và sợ những toán
binh sĩ mất người chỉ huy sinh đạo tặc. Khó mà điều động dân chúng điều động xe
cộ vũ khí lập tuyến phòng thủ. Quân đội không thể nào di chuyển để bảo vệ di
dân. Tướng Lê Duy Tất(theo
“Trận Đánh Quyết Định” của Lữ Giang thì tướng Tất được trực thăng bốc khỏi Phú
Bổn ở trên trời ra lịnh Đtá Nguyễn Văn Đông ở dươi đất) còn ở Leiku với đoàn hậu vệ Biệt Động
quân. Đại tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn quân phải lội bộ về bộ chỉ huy ở Cheo Reo(theo “Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Khỏi
Cao Nguyên 1975” của Bùi Anh Trinh thì CIA bốc ĐTá Lý khỏi Pleiku về Nha Trang
rồi bốc quay trở lại Phú Bổn. Đtá Lý trốn ở bên ngoài vòng chiến rồi chỉ huy miệng
xuống cấp dưới). Đêm 18
Cheo Reo bị pháo kích và bị sư đoàn 320 tấn công. Xác xe còn cháy, xác người,
người bị thương dân và quân lằm la liệt trên đường phố Cheo Reo. Một phi công
trực thăng báo như thế. Phi trường bị chiếm nhưng biệt động quân vẫn giữ được lối
vào thị xã. Cây cầu được sửa xong. 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh. Tướng Phú bốc
đại tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Tướng Tất còn ở phía sau. Từ ngày 19 chỉ huy đầu
đoàn cồng voa thuộc đơn vị trưởng cấp tiểu đoàn, đại đội mạnh ai nấy ra lịnh. Bị
tấn công tới tấp. Trực thăng bốc người bị thương đi. Ngày 19 đầu đoàn xe tới
sông Con(nhiễu Giang) nhưng giữa đoàn lại bị đánh tạt ngang vào Phú Túc. Ngày
21 địch quân chọc thủng các vị trí tiểu đoàn 23 biệt động quân cố thủ, chiếm thị
xã Cheo Reo cắt đứt con đường. Tướng Tất bị bắt sống ở Cheo Reo. Tướng Phú ra lệnh
bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng chạy khỏi Cheo Reo càng sớm càng tốt. Hàng
ngàn người chạy phân tán vào rừng. Trực thăng bốc người từng nhóm nhỏ. Trực
thăng tiếp nước và thực phẩm cho đoàn cồng voa vẫn còn dài thoòng. Liên đoàn 7
biệt động chỉ còn ít quân sống sót, gom được hơn chục thiết vận xa M113 phá các
chốt. Ngày 25 đến Tuy Hòa. Chừng 60 ngàn người đến đích, hơn 100 ngàn bị bỏ sót
dọc đường. Trong số 20 ngàn quân chỉ còn 5 ngàn đến đích. 7 ngàn biệt động quân
của 6 tiểu đoàn còn chừng 900 đến được bộ tư lệnh tiền phương Quân Đoàn 2 ở Nha
Trang.
Nguyễn Tú, báo Chính Luận: từ Pleiku điện về mô tả. Sau khi
nghe tin bộ tư lệnh Quân Đoàn 2 dời về Nha Trang thành phố nhốn nháo. Chiều CN,
16 - 3 người ta hối hả thuê đủ loại xe chất đầy đồ đạc chuẩn bị di tản nhưng
không biết lộ trình nào. Hàng không ngưng bay mấy hôm nay. Các nơi như Kontum
cũng hối hả tháo chạy về đây. 20 giờ ngày 16 mới thực sự bắt đầu. “Mục tiêu đầu là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính”,
báo CL dẫn lời phóng viên Nguyễn Tú(NT). Dân nghèo cũng ra đi bằng đôi chân của
họ. “Đèn pha xe cộ chiếu bóng người già bồng bế tay xách
nách mang vài manh chiếu, vài bọc quần áo bên trẻ thơ níu vạc áo hay ống quần của
bố, đi hàng một sát lề đường tránh đoàn xe trong cái lặng lẽ thất thểu bước nọ
trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.” Tiếng nổ lớn nổ nhỏ ở các kho súng
kho đạn tại Pleiku bị phá hủy. Từng cột khói đen trong lửa đỏ ở các bồn nhiên
liệu cũng được lệnh hủy đi. Có toán người đập phá phóng hỏa nhà cữa người đã di
tản. Tĩnh trưởng cho đốt ty Ngân Khố. Không
còn bác sĩ tư nào ở trong thành phố. Quân dân y ngừng hoạt động. Bệnh nhân
thương binh bị bỏ rơi. Sáng ngày 17, các làng buôn 2 bên QL 14 đi về Phú Bổn trống
trơn. Xe tăng và đại pháo dạt 2 bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để đoàn
di tản trót lọt đến được tĩnh lị Phú Bổn. Từ Hậu Bổn(tĩnh lị) sẽ đi đâu chưa ai
rõ. Đến đây điện đàm dứt.
Nguyễn Ngọc Hùng(NNH) tìm được cha mẹ ruột thấy trong
chương trình số 29 NCHCCCL(Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly) ở trường hợp trên đât nước VN. NNH kể trong lá thư gởi đến chương trình NCHCCCL
tên của anh hồi thất lạc cha Trương Công
Nẫm, mẹ Mai Thị Trọn trên con đường 7B là Trương Công Toàn. Trong thư, NNH nói nhớ
trên mặt mẹ dính nhiều máu. Mẹ la rất to trong đau đớn. NNH chạy đi tìm băng để
đắp cho mẹ. Quay lại không thể tìm được mẹ vì người quá đông. Chạy theo đoàn
người qua nhiều khu rừng rồi tới bờ sông. Không qua được nên quay lại. Chạy
theo như thế rất nhiều ngày vừa đói vừa khát. Chân sưng vù rồi không biết gì nữa.
Bài viết của chương trình nói theo trí nhớ của NNH và gia đình đầu tiên nhận
nuôi anh kể lại, thì lúc đó anh được 6, 7 tuổi. Anh theo gia đình trên chiếc xe
gia binh bị trúng pháo ở gần cầu Ayunpa. Thất lạc gia đình vài hôm rồi được bộ đội đưa về công viên Gia Lai. Một
ngày không biết bao chuyến xe chở về như thế. Ai cũng xanh xao bệnh tật. Nhiều
người đến đó tìm người thân thất lạc. Bị phồng rộp ở chân và nhiều ghẻ lở nên
không biết cách nào đi tìm người thân, chỉ ngồi ở ghế đá chờ phép lạ. Ông Huỳnh
Đán cùng con gái đến đó tìm người thân thất lạc thấy 1 bé trai đang nằm ngủ
trên ghê đá. Thương tình cõng đứa bé đi bộ 20km về Lệ Chí làm con nuôi. Bé
không kể gì về mình và gia đình nuôi đặt tên Huỳnh Văn Sơn. Cuộc sống trở nên thân
thiết. Bé kể tên mình là Trương Công Toàn. Cha đi lính lâu lâu mới về. Mẹ ở
nhà. Nhớ thêm gì thì kể tiếp cho cha mẹ và chị nuôi. Được 11 năm thì mẹ Tình đến
khẳng định anh là đứa con thất lạc của bà tên là Nguyễn Ngọc Hùng. Anh theo mẹ
Tình về gia đinh nuôi thứ 2 dù rất bối rối. Bình tâm anh vẫn nhớ lại hình ảnh
gia đình mình nhất là cái tên bố Nẫm mẹ Trọn. Gia đình mẹ Tình coi anh như ruột
thịt nên anh giữ kín chuyện bản thân trong lòng, thỉnh thoảng âm thầm quay về Lệ
Chí hỏi lại chị nuôi và tự về các trại gia binh ở KonTum Gia Lai tìm bố mẹ đẻ.
Xem Chương trình NCHCCCL có đứa trẻ tìm được bố mẹ đẻ. Anh tìm tới và rồi tìm
được bố mẹ đẻ Trương Nẫm và Nguyễn Thị Trọn làm nghề mứt và gừng nghệ ở Hướng
Hóa Quảng Trị. Chương trình kể tiếp ông Nẫm cùng con trai lớn đi trước. Bà Trọn
bồng bế 5 người con đi xe sau. Lạc mất Toàn rồi lạc mất tiếp con gái tên Liên.
Lang thang trong rừng rồi được bộ đội băng bó đưa về Sơn Hòa. Ông Nẫm và con
trai lớn cũng được đưa về đây. Họ đoàn tụ. Năm 1987 cô gái lớn tên Ánh quay lại
Phú Bổn tìm em thì chỉ tìm được em gái nhưng đã chết vì bịnh còn em trai thì
hãy còn biệt tích giang hồ.
Nhà văn Phan Nhật Nam mô tả cuộc di tản: Trời Cao Nguyên buổi tàn Xuân rét
vào sáng, trưa nắng khô khan. Đường bụi đỏ mịt mù bám vào thành xe, nòng pháo,
khí cụ, tóc tai. Tròng mắt đỏ rực, mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Lính gục ngã trên
mũi súng. Đàn bà con trẻ nằm rũ trên hành lý, thành xe, đất cát, tự hỏi được ngủ
là quá sướng hỡi trời?
“Ngày Tàn Cuộc Chiến II: Tuy Hòa Và
Con Lộ Máu” của Vĩnh Hiếu kể chuyện
hành quân của chiếc trực thăng võ trang Mãnh Hổ từ Nha Trang bay ra cứu mẹ con
một bé gái trong 1 phi vụ đơn độc trong ngày tàn cuộc chiến. Hành quân bình thường
thì bài bản. Phi hành đoàn phải có 3 chiếc. Trực thăng Command And Control đi đầu
chỉ huy, tiếp xúc với bộ binh ở dưới đất và chiếc Hổ 2 theo sau yểm trợ. Giữa
là chiếc võ trang Gunship. Hôm nay chiếc trực thăng võ trang Gunship Mãnh Hổ
bay vào vùng hành quân đơn độc là điều ngoại lệ vào những ngày tàn hỗn quân hỗn
quan. Trên máy bay có ông anh rể làm nghề thầy giáo cũng đi theo xem, 2 phụ tá
và 1 đống bánh mì. Bay dọc theo bờ biển ra phi trường Đông Tác lấy xăng. Tại
đây một đại úy biệt động quân mang radio FM để liên lạc với bạn ở dưới đất, một
ký giả, ông Richard Blystone của AP xin đi theo. Đại úy xin yểm trợ bạn ông ở
Phú Túc. Bay chừng hơn 20 phút thì đến nơi, tới 1 ngọn đồi VC đặt pháo bắn xuống
1 con lộ. Trực thăng tác xạ 3, 4 bóng đen VC trong bãi lau dưới chân đồi dọc bờ
sông gần 1 cái miếu nhỏ. Rồi máy bay lo đi thả bánh mì. Bay dăm ba phút thì thấy
đoàn người chạy loạn dừng lại ở đầu 1 cái cầu bắc qua sông Ba mà phần giữa bị sập.
Một nửa nhịp chìm dưới đáy sông cạn. Xung quanh đám công binh xúm lại nối cây cầu.
Một chiếc Chinook bay đến bụng treo tòong teng tấm sắt rất lớn trông như nhịp cầu.
Rồi chiếc Gunship Mãnh Hổ bay dọc theo bãi sông it người hơn để thả hết số bánh
mì. Xong việc, máy bay bốc cứu 2 mẹ con và 2 người đàn ông theo sau nữa. Đồng hồ xăng xuống quá thấp. Ra
hiệu viên đại úy BĐQ rồi quay lại trái đồi nói trên, chiếc Gunship trút hết đạn.
Máy bay phóng nhanh về Tuy Hòa.
Truyện ngắn “Rừng Khóc Giữa
Mùa Xuân” của Phạm Tin An Ninh dựa vào chuyện kể của vợ 1 quân nhân chạy loạn
hư cấu hình ảnh 1 thế hệ nam nữ thanh niên bị cướp mất tuổi thanh xuân. Nổi thống
khổ lên đến đỉnh điểm thấy trong cuộc chạy loạn qua đường 7B ở Phú Yên những
ngày đầu Ngày Tàn Cuộc Chiến. Chuyện kể một cô gái ở đất Thành Kinh(Huế) xinh đẹp
học ở Trường Nữ TH Nha Trang được nhiều người theo tán tỉnh nhưng số kiếp lại
phái lòng 1 chàng trai học ở trường nam Võ Tánh NT xếp bút nghiêng đầu quân vào
binh chủng Biệt Động hành quân trên vùng cao nguyên đất đỏ. Họ lấy nhau năm
1968, thời có biến cố Tết Mậu Thân, “kết
thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có
điều gì trắc trở” nàng nói. Chỉ sống
được 1 tháng bên chồng ở hậu cứ Pleiku rồi phải xa chồng về ở với cha mẹ chồng
vì chàng phải hành quân liên miên. Thỉnh thoảng mới có vài cuộc thăm viếng ngắn
ngủi. Ba năm sau sinh 1 bé trai bụ bẫm trên vành tai có lỗ tai nhỏ giống như ba
nó và được đặt tên là Lê Cao Nguyên. Anh bị thương được về làm ở hậu cứ. Chàng
và nàng lại được sống bên nhau ở trại gia binh bên Biển Hồ thơ mộng cùng với 1
chị giúp việc. Trại bị pháo kích. Bé Cao Nguyên mang 1 vết sẹo ở cánh tay. Bé Cao Nguyên 2 tuổi thì nàng sinh 1
bé gái giống mẹ đặt tên là Thùy Dương tưởng nhớ nơi 2 người từng sinh sống và gặp
nhau, thành phố Nha Trang.
Rồi thì họ hối hả bỏ phố phường Pleiku vào 1 ngày giữa
tháng 3 năm 1975 định mệnh. Đến Phú Bổn vào chiều tối trong khói lửa mịt mùng bỡi
đạn pháo kích và bom của chiếc phản lực ném nhầm quân bạn. Tới Phú Túc thì bị tấn
công từ mọi hướng. Nhiều xe bốc cháy. Nhiều người chết và bị thương. Cả đoàn
xen không nhúc nhích. Lệnh bỏ lại tất cả, băng rừng mà đi trong đêm tối. Tới bờ
1 con sông nhỏ ngủ lại dưới 1 gốc cây. Chồng và bạn chia nhau canh gác. Thức giấc
thì trời đã sáng. Tiếp tục đi. Cao Nguyên ở trên vai bố nó được phủ bỡi manh áo
giáp. Ra khỏi rừng thì bắt gặp đoàn người máu me thương tích đi cùng hướng, nét
mặt kinh hoàng và không mang theo thứ gì. Vừa tách khỏi đoàn để được an toàn
thì trận mưa pháo ập xuống. Cả khu rừng như trải qua cơn địa chấn. Đau đớn mà
nghe lệnh cấp trên bảo “Đạp lên nhau mà
đi.” Chừng sau 1 tiếng bắt gặp khoảng 20 đồng đội. Súng nổ. Chồng tôi trở
thành người chỉ huy, mang con trên vai xông vào trận mạc tiêu diệt đám địch
quân rồi quay lại dìu dắt đám đàn bà con nít tiếp tục đi trong núi rừng khi màn
đêm buông xuống. Dừng lại trên 1 ngon đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính
trung thành không lợi dụng đêm tối trốn đi mà cùng ngủ lại với chúng tôi. Dựa
vào gốc cây anh ôm chặt tôi hôn nhẹ lên môi lên tóc không phải giờ này mà còn
lãng mạng mà có lẽ do tội nghiệp cho người con gái trót yêu thương lính chiến. Không
ngờ định mệnh định những nụ hôn đó là nụ hôn cuối cùng. Vừa bước chân xuống đồi
sáng hôm đó thì chạm súng với địch. Phân tán từng đám nhỏ để xông vào đám đông
đảo địch quân. Tiếng “Biệt Đông Quân sát”
vang dội núi rừng. Một anh trung sĩ bị thương được chỉ định giắt đám đàn bà con
nít ra khỏi trận chiến. Thất lạc con và chồng tôi từ đây. Đến bìa rừng thấy mấy
xác biệt động quân máu me lai láng nằm bên xác quân thù mà sau biết là họ tự
sát khi bị địch bao vây chết chung với địch. Vào cánh rừng bên phải thì bị chặn
lại. Anh trung sĩ bị tước vũ khí. Tất cả bị lùa ra bên 1 con suối. Ở đây có 1 toán sĩ quan binh sĩ không có chồng
tôi bị bắt làm tù binh. Tay bị trói quay lưng ra suối trước họng súng kẻ thù. Rồi
thì chúng tôi bị dồn vào 1 trường học ở Củng Sơn. Cuối cùng nàng cũng mò về tới
Nha Trang mới vừa thất thủ. Hơn 1 tuần thì tỉnh táo xin mẹ cha và nhờ em trai
chở bằng Honda trở lại lộ 7B tìm chồng con.
Cả 1 sự kinh hoàng: xác xe cộ bị đốt cháy, vươn vãi những bộ xương khô,
bao niêu nấm mộ lấp vội bên đường, cả 1 vùng xông mùi tử khí. Đến Cheo Reo qua
đồng đội của chồng thì biết được tin chồng chiến đấu ở ngọn đồi gần đèo Tuna, bị
thương và cố đem bé Cao Nguyên đến 1 nơi nào đó. Thuê 5 người thượng lần theo
đường cũ nhưng không tìm được vết tích gì. Trở về Nha Trang lấy ngày 19-3 làm
ngày giỗ 2 cha con. Hàng năm đến gốc cây định mệnh nói trên mà than thở. Rồi vượt
biển thành công sang định cư ở Bắc Âu.
Hai mươi năm sau Thùy Dương lấy chồng. Hai mẹ con trở
về chốn cũ. Lộ 7B được tráng nhựa và gọi là QL 25, Cheo Reo được gọi là A Yun
Pa. Ra phiên chợ mua gà để cúng chồng thì gặp 1 chàng trai bán gà người thượng tên
Tlang mà tay có vết sẹo hình đầu con cọp đúng như trường họp của Lê Cao
Nguyên(LCN). Vành tai anh cũng có cái lỗ tai nhỏ như LCN, cũng cái sống mũi cao
và đôi mắt khá to ấy. Chị người làm từng bồng bế LCN cũng xác nhận dấu vết
Tlang giống LCN chỉ khác màu da màu tóc sạm nắng vùng đất đỏ cao nguyên mà thôi.
Lần lần tìm ra được gốc ngọn. Mẹ nuôi Tlang kể 1 ông lính rằn ri bị thương cõng
đưa trẻ 4 tuổi cố lếch vào dưới nhà sàn rồi chết. Bà ta chôn ông lính ở gôc cây
kia kìa và nuôi Ksor Tlang đến nay được 1 vợ 2 con. Câu chuyện kết thúc có hậu
đầy ắp tình người, tình dân tộc là thân xác anh chiến binh được để lại cùng đồng
đội ở Cao Nguyên. Ý nguyện người thượng Tây Nguyên quyết ở lại với núi rừng trên
vùng đất đỏ chứ không chịu rời Cao Nguyên để về Nha Trang hay sang Na Uy cũng
được tôn trọng.
Cuối cùng là ca khúc “Chiều Qua Tuy Hòa” nói lên nội dung thống khổ quân dân trên đường chạy loạn
qua lộ 7B, tiếp tục xuôi Nam rồi chấm dứt tại Saigon 30-4-1975. Mời xem
videoclip minh họa.
Giữa Mùa Đông Giáp Ngọ
13-11-2014
HBC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét