1-Vào mùa kỷ niệm
những ngày trọng đại Mùa Thu, năm nay, năm 2014, thêm 1 chuyện bực mình do truyền thông lề phải phạm lỗi cố hữu là làm méo mó lịch sử. Ngày tiếp quản thủ đô 10-10-1954 báo chí đồng loạt gọi là “Ngày Giải Phóng Thủ Đô.” Trước đó có 2 sự kiện ế khách, không hấp dẫn người xem. Chuyện Triển Lãm CCRĐ 1946-1957 vào ngày 8-9-2014 và chuyện chiếu phim “Sống Cùng Lịch Sử” ca tụng tướng Giáp nhân ngày 2-9-2014. Ế là vì “méo mó Lịch sử”, bị chê không chính danh.
những ngày trọng đại Mùa Thu, năm nay, năm 2014, thêm 1 chuyện bực mình do truyền thông lề phải phạm lỗi cố hữu là làm méo mó lịch sử. Ngày tiếp quản thủ đô 10-10-1954 báo chí đồng loạt gọi là “Ngày Giải Phóng Thủ Đô.” Trước đó có 2 sự kiện ế khách, không hấp dẫn người xem. Chuyện Triển Lãm CCRĐ 1946-1957 vào ngày 8-9-2014 và chuyện chiếu phim “Sống Cùng Lịch Sử” ca tụng tướng Giáp nhân ngày 2-9-2014. Ế là vì “méo mó Lịch sử”, bị chê không chính danh.
2-Thuyết Chính Danh khởi xướng bỡi Khổng Tử chủ trương “vua
cho ra vua, tôi cho ra tôi” trong tôn ti trật tự ngũ thường(vua/tôi,cha/con,anh/em, vợ/chồng, bạn/bè mà chủ yếu
là tam cương: quân/ thần, phụ/ tử, phu/ phụ)
nhằm duy trì nền quân chủ trong trật tự xã hội có đẳng cấp. Khi vua, cha hay chồng
lợi dụng lòng trung hiếu chuyên quyền thì sẽ sinh ra mất tự do dân chủ. Thuyết
Chính Danh ngày nay bị thuyết Dân Chủ ra đời sau này ở Âu Mỹ đánh bại.
Đầu tiên ở nước Anh xuất hiện
nền Đại Nghị. Vua bị Quốc Hội giới hạn quyền. Sang thế kỷ 17 QH kiểm soát được chính quyền nhưng chưa có
dân chủ vì QH còn bị chi phối bỡi chủ đất và thương gia giàu có. Năm 1689 ở Anh,
Đạo Luật 1689 bảo đảm dân quyền ra đời. Dân Chủ Tự Do Bình Đẳng mới có. Trong tiến trình đó có
các nhà tư tưởng triết gia ra đời như John Locke(1632-1704) ở Anh,
Montesquieu(1689-1755), Voltaire(1694-1778), Jean Jacques Rousseau(1712-1778) ở
Pháp. Cách Mạng Pháp tiếp diễn sang thế kỷ 18, tới ngày 14-7-1789 thì ngục
Bastille, biểu trưng cho chuyên chế quân quyền vua Louis XVI bị hạ. Quốc Hội Lập
Hiến ra Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền. Tư tưởng Dân Chủ truyền qua Mỹ
Châu. John Locke chủ trương “con người có
được 1 cách tự nhiên các quyền lợi về đời sống, tự do và tài sản. Dân thiết lập
ra 1 thứ chính quyền để bảo vệ quyền
lợi của họ. Chính quyền giống như 1 thứ khế ước xã hội giữa người cai trị và bị
trị. Không bảo vệ được quyền lợi của dân thì dân lập chính quyền mới.” Chủ
trương trái với chủ trương trung quân của Khổng Tử. Ở đó chính quyền được cha truyền
con nối. Năm 1776 Cách Mạng Hoa Kỳ
đưa tư tưởng Jhon Lock vào Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập và vào bản hiến pháp viết ra năm 1787.
Tư tưởng Không Tử tồn tại thế
kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác không phải không có
giá trị phổ quát, bất biến theo thời gian và không gian. Không Tử(KT) không có
cái gì riêng cả mà tư tưởng được triển khai từ nguồn các thời đại có trước rất
khách quan. Ông san định lại để áp dụng thời ông. Vì thế ắc phải có giá trị bất
biến đóng góp vào nền văn minh của nhân loại. Đề cập tới tư tưởng KT, Nguyễn Hiến
Lê viết: “Nếu sau mười thế hệ, người ta
thấy nó vẫn còn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi nó là một
cống hiến lớn cho nhân loại rồi.”Lỗi thời vì cố chấp vào ý tưởng trung hiếu
không để ý tới khía cạnh phổ quát của ý Chính Danh. Chính Danh áp dụng cho cả
môi trường tự nhiên sự và vật. Vậy sao không có giá trị bất biến. Gọi
tên sự vật, đồ vật cũng phải chính danh. Không Tử bảo gọi cái bình rượu có cạnh
có góc là cái “cô” thì không chính danh vì cái “cô” thời KT hình tòn không có cạnh
góc như cái “cô” thời trước KT(theo Nguyễn Hiến Lê). “Danh chính” đi kèm “ngôn
thuận.” “Danh” là tên gọi vị
trí, địa vị hay bản chất thực của sự và vật. “Thuận” trong nghĩa đồng thuận. Khái niệm để chấp thuận không một
người có thể tự định đoạt. Khái niệm phải tuân theo phép tắc, quy củ của xã hội
đã quy định. Không do 1 người tự đặt là khách quan. Theo phép tắt, qui củ là khoa học và theo ý của xã hội là dân chủ.
Ngày nay ta hiểu chính danh là “Định Nghĩa” trong khoa học đấy. Khi khảo cứu, nhà khoa học trước tiên phải định
nghĩa cái đã rồi mới nói đến cái gì, sự vật gì. Gía trị bất biến theo không
gian và thời gian ở chỗ đó. Muốn được chính danh thì lời nói và hành động phải
đúng đắn. Làm chính trị là làm cho mọi việc ngay thẳng. Lấy ngay thẳng mà khiến
người, thì ai dám không ngay thẳng. Tính nhân bản có kém gì ở trong lý thuyết
Dân Chủ.
3-Trở lại chuyện không chính danh. Tác giả Xích Tử trong báo Dân Luận nói thuật ngữ “tiếp quản” đã dùng trong văn kiện Hiệp Định
Đình Chiến Geneve ký ngày 20-7-1954 cùng với các thuật ngữ “tập kết”(dùng cho giới chức VNDCCH tập trung để ra Bắc), “tiếp thu”(dùng cho giới chức QGVN theo chiều ngược lại tới các
vùng do VNDCCH trước đó kiểm soát), “rút lui”, “chuyển giao.” Từ dùng trong các văn kiện hiệp định hòa ước được
chuyên gia chọn lựa tính toán cẩn thận nên từ đó trở về sau các tài liệu khác cứ
như thế mà dùng cho được chính danh(người
thật việc thật). Đùng 1 cái năm nay các
báo bẻ cong ý niệm “Ngày Tiếp Quản Thủ
Đô” thành “Ngày Giải Phóng Thủ Đô.”
Chỉ gõ từ khóa “Ngày Giải Phóng Thủ Đô” thì thấy 1 loạt các báo chạy tít như thế:
Ha Noi Moi, Bao Moi.com, Đời Sống Phap Luat, VN Express, Bao Dien Tu An Ninh
Thu Do, VOV, Lao Dong, Xa Hoi. V Viet
Bao, The Thao Van Hoa, Nguoi Dua Tin, Thanh Nien, Ngaydep.com. Chỉ có báo Tiền
Phong Điện Tử giật tít: “Tiếp Quản Thủ
Đô” Biểu tượng khải hoàn của Hà Nội.”
Có diễn đạt khác đi thì cũng chỉ dùng “ngày trở về”, tức ngày khải hoàn. Văn
Cao đề tựa cho sáng tác vào dịp này cũng đề “Tiến Về Hà Nội” mà không dùng từ “giải phóng. ” Xích Tử dẫn ý kiến
của Dương Trung Quốc nói “sự kiện
10-10-1954 nói cho đúng là ngày tiếp quản thủ đô, diễn ra thanh bình, không hề
có tiếng súng.” Tác giả Xích Tử viết tiếp: “Vậy thì gọi “giải phóng Thủ đô” làm gì cho nó nặng nề, lại giả dối?” Có
phải để đọc cho sướng miệng hay do thói quen di căn dựng hình ảnh anh hùng theo
định hướng tuyên truyền giáo dục kiểu Trần Đỉnh nói “pha phách thêm nếm” cho bài viết nổi bậc khung cảnh sôi sục sinh động
mà TBT Trường Chinh chỉ thị viết về cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm qua người cấp
dưỡng của TBT theo TBT dự cuộc đấu tố kể lại(Đèn Cù chương 5). Khi đoàn quân tiến
về thì có đoàn người khác bỏ HN ra đi di cư vào Nam. Từ “giải phóng” hiểu làm sao đây. Một điều đáng để ý tới nữa là ca khúc
“Tiến Về Hà Nội” mặc dù là của nhà soạn
nhạc nổi danh Van Cao nhưng không có nghệ sĩ nào lãnh trình bày trừ cặp Tạ Quang
Thắng-Bảo Trâm. Gõ từ khóa “Tiến Về Hà Nội”
chỉ thấy google tìm một loạt địa chỉ mà mở ra nghe cũng chỉ có mỗi “một giọng”
hợp ca nam nữ của đài TNVN trình bày mà thôi.
Chuyện thứ 2 được đề
cập trong dịp này, dịp nhân dân có nhu cầu muốn biết sự thật những sự kiện lịch
sử gần đây. Tác giả Trần Trung Đạo viết trong DLB bài nói về anh hùng Nguyễn
Văn Trỗi(NVT) và anh Hùng Nguyễn Văn Bé(NVB). “Vật” là con người NVT và NVB thì
có thực còn “sự” thì không có thật, không chính danh. Tác giả trích bài thơ Tố
Hữu dựng hình tượng anh hùng Nguyễn Văn Trỗi như sau: “Anh thét to: "Ta có tội gì đây ?"/Chúng trói Anh vào cọc mấy vòng dây./Mười
họng súng. Một băng đen bịt mắt/Anh thét lên: "Chính Mỹ kia là giặc!" /Và
tay Anh giật phắt mảnh băng đen/Anh muốn thiêu, bằng mắt, lũ đê hèn/Với cái chết.
Anh muốn nhìn giáp mặt/Như ngọn lửa không bao giờ dập tắt!…./Anh thét lên: Hãy
nhớ lấy lời tôi:/Đả đảo đế quốc Mỹ!/Đả đảo Nguyễn Khánh!/Hồ Chí Minh muôn năm!/Hồ
Chí Minh muôn năm!/Hồ Chí Minh muôn năm!/Phút giây thiêng, Anh gọi Bác ba lần!/Súng đã nổ.
Mười viên đạn Mỹ/Anh gục xuống. Không, Anh thẳng dậy/Anh hãy còn hô: "Việt
Nam muôn năm!"/Máu tim Anh nhuộm đỏ đất Anh nằm!” Tác giả nhận xét: đã
bị trói tới mấy vòng dây mà còn tay nào “giật
phắt mảnh băng đen”? Đã lãnh 10 viên đạn gục xuống thì làm sao còn đứng “thẳng dậy” để hô "Việt Nam muôn năm!" Rõ ràng sự vật không thật, không chính
danh. Cứ xem hình ảnh có tới 9 cái loa treo trên chỉ có mỗi 1 cái trụ điện
trong hình bìa sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức thì thấy sức mạnh khủng khiếp
tuyên truyền giáo dục thời đó. Người ta bị nhồi nhét tới mức thị giác bị thui
chột để không còn thấy cái mâu thuẫn, cái vô lý thấy ngay trong bài thơ vừa nêu
trên. Tác giả kể tiếp về chuyện anh hùng Nguyễn Văn Bé.
Con người Nguyễn Văn
Bé thì có thực. NVB sinh năm 1946 tại quận châu thành Mỹ Tho, tham gia MTGPMNVN, được giao nhiêm vụ tải súng
đạn, bị quân Mỹ bắt cùng số vũ khí ngày 30-5-1966 tại kinh Cả Bèo ở xã Mỹ Qúy
tĩnh Kiến Phong. Phe bên kia loan tin NVB bị tra tấn cương quyết không khai,
nâng 10 kg mìn Claymore đập vào chiếc tăng M118 kích nổ phá tan kho đạn tự sát
chết rồi dựng hình tượng anh hùng liệt sĩ này. Người ta biết sự vật anh hùng không
thật, không chính danh khi NVB được chiêu hồi. Theo báo Time thì NVB chưa bao
giờ bắn 1 viên đạn. NVB trốn trong 1 con kinh đào và bị nắm tóc kéo lên. NVB hồi
chánh. Phe bên nay phỏng vấn cha mẹ NVB và đưa họ đến khu vực an toàn, in 20
triệu truyền đơn, 7 triệu minh họa, 465 ngàn bích chương, 167 ngàn tấm hình
NVB, 10 ngàn bài hát, và nhiều chương trình truyền thanh truyền hình nói về sự
thật NVB đã đầu hàng, hồi chánh hiện sống bình an để đáp trả hình ảnh “chủ
nghĩa anh hùng” của liệt sĩ NVB nhằm động viên thanh niên phe bên kia lao vào
cuộc chiến. Phe bên kia không ngại dựng
chuyện không có thực là mìn Claymore nặng tới 10kg và kích nổ bằng cách đập mạnh
như lựu đạn chứ không dùng ngòi nổ phụ. Thế mà quần chúng vẫn tin chuyện có thật.
Phe bên nay phải vận động ngần ấy để biện minh. Khủng thật! Người làm chính trị
phe bên kia quên mất lời răn của Khổng Tử: “Làm
chính trị là làm cho mọi việc ngay thẳng. Lấy ngay thẳng mà khiến người.”
Chuyện cây đuốc
sống thiếu niên Lê Văn Tám đốt kho Thị
Nghè không phải chuyện người thật việc thật(TVTtc, bài “GS Phan Huy Lê: Trả Lại Sự Thật
Hình Tượng Lê Văn Tám”). Trong bài viết
đó GS Phan Huy Lê(PHL) viết lời kể của GS Trần Huy Liệu(THL): “Nhân vụ
kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 – 1945 và được
loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của
Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi đã
“dựng”
lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho
xăng địch cách đấy mấy chục mét.” PHL
viết tiếp “GS Trần Huy Liệu còn cho biết
là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một
cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều
lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho
xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý.
Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để
xác nhận thêm.” PHL viết tiếp “Tôi
nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị
Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên.” Chuyện giống như
Trần Đỉnh nói về chuyện đấu tố bà Nguyễn Thị Năm. Chuyên có thật rồi “pha phách thêm nếm.” Phết phảy 1 hồi mất
hết chính danh. PHL viết: “Lời dặn của GS
Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu
chuyện Lê Văn Tám…các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi
không còn nữa.”
PHL đi tìm chính
danh. Vậy “cơ sở sự kiện có thật” là
gì để trên đó dựng lên cái không có cốt xui người ta hiểu là có vì ích lợi mình
muốn? Trong bài viết GS tìm rất nhiều tài liệu liên quan. GS loại trừ những tài
liệu viết sau này sợ chủ quan sao chép lệch lạc mà cũng không tìm chuyện có
thật là gì. Trước hết nhân chứng Trần Văn Giàu nói có sự kiện kho xăng dầu
ở Thị Nghè bị đốt cháy. Chỉ thế thôi. Ai đốt và đốt ra sao thì hổng biết. Nhà
CM lão thành Dương Quang Đông nói đốt kho đạn Thị Nghè ngày 1-1-1946 không phải Lê Văn Tám
mà là tổ đánh mìn của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán. Báo Quyết chiến số ngày
thứ sáu, ?- 10 – 1945 viết: “Một gương hi
sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình tự làm mồi lửa đã đốt
được kho dầu Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm hai ngày.” Trong bản tin
có nhắc bản tin đài Sai Gon truyền thanh tối 17 – 10 công nhận rằng kho dầu này
đã hoàn toàn bị thiêu ra tro. Tác giả tra lại lịch và kết luận là báo ra ngày
thứ Sáu 19-10-1945. Đốt phải xảy ra ngày 17 hay trước đó. Thời Báo số 6 ngày
28-10-1945 có đoạn viết ““Một người bạn
tôi ở Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe
mắt thấy… chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-săng và cao su
sống ở Sài Gòn.” Tác giả còn dẫn nhiều mô tả khác nhau nữa quanh chuyện
này. Không biết đâu là sự thực xảy ra. Báo Cờ giải phóng số ra ngày 25-10-1945,
đưa lên trang đầu hình ảnh một người đang bốc cháy xông về phía trước kèm theo
lời “Tinh thần anh dũng của đồng bào Nam
Bộ muôn năm.” Báo Cờ giải phóng ngày 5-11-1945, có đoạn: “Một em thiếu sinh 16 tuổi, nhất định không nói
tên họ, làng, tình nguyện ra lấy thân mình làm mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh
mình, tẩm dầu xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung
hô “Việt Nam vạn tuế”, chân chạy đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra
như mưa. Một lần trúng đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luồn
vào. Lính Anh khiếp đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán
cùng với kho đạn Thị Nghè của giặc” PHL
nói dưới bản tin có ghi chú “Kèn Gọi Lính, ngày 8-10-1945” và suy là đưa tin theo
báo “Kèn Gọi Lính”và như vậy em bé cảm tử trước ngày 8, khoảng ngày 7.
Tìm được những
thông tin như thế thì PHL nói THL không hề hư cấu sự kiện kho xăng địch ở Thị
Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, dựng lên chuyện cây đuốc sống LVT! Khó
mà chấp nhận lối biện minh này. Chẳng lẽ có chuyện kho xăng dầu cháy, có chuyện
kho đạn nổ, có chuyện người cảm tử làm mồi lửa đốt những yếu điểm dễ cháy nổ là
dựng được chuyện anh hùng Cây Đuốc Sống LVT như có thật cho toàn dân và mấy thế
hệ tin theo mà không sợ phạm lỗi hành động không chính danh? Đời xưa quân tử,
kẻ sĩ nghe lời răn của KT thì không dám làm như thế được. Những thông tin như
trên chẳng có gì gọi là sự kiện(theo
thuyết Chính Danh gọi là sự và vật) rõ
ràng chắc chắn(chính danh) cả. Con người(vật), cách làm(sự) hãy còn chung
chung. Người Pháp quay trở lại Nam Kỳ gây phẫn uất nhân dân. Nhiều hành động
chống trả phải có. Đốt cháy là lối đánh hỏa công quá thông dụng của người Á
Đông xưa nay. Nhằm những yếu điểm dễ cháy nổ là chuyện phải có. Trong bối cảnh
sục sôi lòng yêu nước ắc có chiến sĩ vô danh liều thân. Trong bối cảnh Nam Bộ
đánh Tây sự và vật trong những thông tin như trên có thể có và cũng có thể
không có. Không có là vì do lòng mong
muốn đánh Tây tưởng tượng thêm thắt ra thành có. Lãnh đạo chính trị thời đó sao
dám dựng
lên chuyện như có thật để huy động tuổi trẻ lao vào cảm tử. “Dựng” là không
chính danh. Vì tin là có thực, tức tin sự và vật chính danh nên dân mới noi
theo. Đem cái không chính danh để người đời tin noi theo là lừa phỉnh. Như thế
là cách làm của phàm phu tục tử chứ không quân tử có Trí Đức. Nhỡ cách mạng
chệch hướng thì trách nhiệm tính sao cho những hi sinh mất mát quá to lớn của
nhân dân. Càng ở trên cao thì trách
nhiệm càng nặng nề vì hậu quả sinh ra to hơn phàm phu tiểu tốt. Vì thế Nho Giáo
mới chủ trương đặt gánh nặng Trí và Đức lên vai kẻ sĩ quân tử, lên vai của
người cầm quyền. Lần nữa nhắc lại lời răn: “Làm
chính trị là làm cho mọi việc ngay thẳng. Lấy ngay thẳng mà khiến người, thì ai
dám không ngay thẳng” Làm không ngay thẳng lỡ ngày sau sinh ra 90 triệu dân,
3 triệu cấp thừa hành không ngay thẳng thì nguy to.
Cuối bài viết PHL biện minh nói: “không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật,
nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có
thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng
liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu
tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá
trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám” Do đó PHL mới đề nghị các đường phố,
trường học, công viên mang tên Lê Văn Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng. Thật
không ổn. Lỡ có tác dụng ngược thì sao. Hình ảnh đó gợi cho người dân nghĩ 1 một
thời tin chính danh mà trót theo lãnh đạo. Cũng là biểu tượng nữa. Khi lãnh đạo chế tác
công cụ(vật) tuyên truyền cây đuốc sống LVT đâu có nói đấy là biểu tượng mà
“chính danh” là “Cây Đuốc Sống LVT”. Lãnh đạo muốn dân hiểu đó là vật thực việc
thực(chính danh) để dân noi theo. “Danh chánh/Ngôn thuận”đã thành định luật của
người Á Đông. Danh “Cây Đuốc Sống LVT” là chánh nên mới có sự đồng thuận của
nhân dân, đồng thuận hi sinh cho cuộc chiến theo lẽ phải. Biểu tượng không được
quân tử kẻ sĩ dùng làm công cụ như cái có chính danh. Văn hóa phong kiến(đạo
Nho) răn như thế. Cái tượng đài, cái đuốc mới là biểu tượng còn tên Lê Văn Tám,
một thời chính danh là 1 thiếu niên liều thân đốt kho xăng Thị Nghè 17-10-1945
nếu không có thật thì thôi chứ không làm biểu tượng được. Tượng đài cao quí nhất
tôn vinh cho những người nằm xuống cho vẹn toàn lãnh thổ, cho tương lai tốt đẹp
đất nước không phân biệt phe phái chính kiến nào là tượng đài Chiến Sĩ Vô Danh.
Vào thời điểm năm 1945 có nhiều Chiến Sĩ Vô Danh đánh Pháp dù phe Quốc hay phe Cộng.
19-10-2014
HBC.
Mời xem videoclip “Tiếp Quan Hay Giai Phong Thu Đô”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét