Xây dựng lễ đài
Lễ hội diễn ra từ 27-3 đến 2-4-2014, đánh dấu ngày Phú
Yên được giải phóng, 1-4-1975.
Lễ hội diễn ra
tại công trường 1-4 TuyHòa Phú Yên, gần đình Phú Câu, nơi năm 1826 là làng Phú
Câu, nguyên là Phường Câu thôn thuộc hạ bạc huyện Đồng Xuân(Địa Bạ Tĩnh Phú Yên). Phường, hạ bạc là vùng xa, vùng sâu rất là nghèo khổ và hẻo lánh. Nó
chỉ là 1 làng chài nghèo khó. Trông vào tiêu đề như trên ta xem xem 188 năm
sau(1826-2014) nó thay da đổi thịt ra sao.
Phú Yên là đất do chúa Nguyễn mở mang ra. Sử gia Trần
Trọng Kim và bộ Đại Nam viết rành rành là năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng đánh lấy
đất Chiêm Thành lập ra phủ Phú Yên với 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa sau 140
năm(1471-1611) tranh giành giữa người Việt và Chiêm đất Nam Đèo Cù Mông. Ông
Lương Văn Chánh(LVC) làm quan ở huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhân(Đại Nam Nhất Thống Chí) từng hành quân qua vùng này, đánh vào Thành Hồ năm 1578 trong chương
trình bình định biên giới phía Nam sau năm 1573 là năm Trịnh Tùng nắm được
quyền ở đất Thanh Hóa(diệt Trịnh Cối, Lê
Cập Đệ, vua Anh Tông, tôn vua Thế Tông lên ngôi). Lần bình định thứ 2 vào năm 1597(Dạy Phù Nghĩa hầu LVC…hãy liệu đem số
người…đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn…khai khẩn…) cũng sau khi
Trịnh Tùng lấy được Đông Đô bình định được đất Bắc mùa Xuân 1592-93, tưởng
thưởng tướng sĩ trong đó có LVC(thưởng
năm 1596), bấy giờ mới sai LVC đi lo củng
cố biên giới phía Nam. LVC là thuộc cấp của Đô Tướng Trịnh Tùng tiết chể toàn
bộ thủy bộ chi binh ở tiều Lê Thế Tông. Sử liệu rành rành như thế mà thế hệ
Trung Học Lương Văn Chánh(1946-1950) tham danh “uốn cong” lịch sử tôn vinh LVC
là danh nhân sáng lập ra đất Phú Yên, làm các thế hệ theo sau hiểu sai lạc lịch
sử hình thành và phát triển đất Phú Yên. Người ta đi xa hơn nữa là cho LVC là
hậu duệ của trạng Lường Lương Thế Vinh ở đất Thanh Hóa nên lấy Lương Thế Vinh
làm danh nhân cho đất Phú Yên để đặt tên trường!
Mười lăm sắc chỉ thờ ở miếu LVC sờ sờ tôn LVC là Tiền Trấn Biên
quan công lao rất lớn nhưng vẫn là người của phủ Hoài Nhân có công giữ vững
biên giới cho Đại Việt thuộc triều Lê Thế Tông. “Tiền” cũng có nghĩa là “trước”
về thời gian. Ông là một Trấn Biên quan có trước các Trấn Biên quan sau này
thuộc chính quyền của Xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn trong công cuộc mở nước.
Phú Yên là Tiền Trấn Biên đầu tiên thuộc chúa Nguyễn. Tuy Viễn là Trấn Biên
thuộc triều Lê Trung Hưng. Dẫn giải đoạn sử này để thấy nơi mà ngày nay ta hành
lễ là nơi ông cha ta chịu nhiều khó nhọc mới có được.
Tới năm 1826 mà bờ Bắc sông Đà Rằng hãy còn thuộc
huyện Đồng Xuân, thời các tổng chưa có tên riêng gọi chung chung là tổng
Thượng, Trung và Hạ. Năm 1826 huyện Tuy Hòa có 4 tổng là tổng Hòa Bình, Hòa Đa,
Hòa Lạc và Hòa Mỹ. Tổng Hòa Bình mới ở bờ Bắc sông Đà Rằng gồm nguyên là hạ
bạc, các làng xã thuộc tổng trung hay tổng thượng của huyện Đồng Xuân. Có thể
huyện Đồng Xuân là phần nối dài của huyện Tuy Viễn trong quá trình chinh chiến
Chiêm-Việt giành đất giành dân trong 140 năm nói trên.
Sau năm 1611 huyện Tuy Hòa chỉ là 1 huyện bé tí nép
mình ở 1 góc Đông Nam của đất này mà suốt 140 năm người Chiêm cố thủ nhờ sông
Đà Rằng rộng và rặng Đại Lãnh núi cao bí hiểm. Thoạt đầu thủ phủ huyện Tuy Hòa ở
bên kia sông. Sau năm 1826 thủ phủ mới dời về làng Đông Phước bên bờ Bắc. Không
biết thủ phủ dời về vùng đất thị xã Tuy Hòa ngày ngay vào năm nào. Khoảng giao
thời Pháp Thuộc và vua Nguyễn thì thủ phủ ở ngả 4 Lê Lợi-Phan Đình Phùng ngày
nay. Năm 1945 máy bay Đồng Minh ném bom trật mục tiêu “phủ cũ” tạo 1 cái hố sâu
trước mặt chùa Cát. Sau đó xuất hiện tên đường “Phủ Cũ” là đường Phan Đình
Phùng. Thời đó Chợ Dinh là khu thương mại nằm ở góc Đông Nam núi Nhạn. Có 1 con
sông gọi là Sông Dinh mà thượng khẩu ở đình Phường 3 và hạ khẩu ở đình Phú Câu
sau khi chảy ngang qua đình phường 4. Thập niên 1960 hãy còn vết tích con sông này
ở nơi gọi là Ao Sông Dinh nằm trước mặt đình phường 4. Thời đó Phú Câu
hãy cũng còn là 1 làng chài.
Như đoạn lịch sử vừa mô tả thì phần quan trọng của đất
này(Phú Yên) là huyện Đồng Xuân với thủ phủ lâu đời là Hội Phú(Hội An?) ở cũa
Tiên Châu. Người Pháp đến xây dựng được đập Đồng Cam đem sự trù phú cho đất Tuy
Hòa và Đệ Nhất Việt Nam Cọng Hòa xây dựng tĩnh lị ở đây thay đất Tuy An trước
kia và đất Sông Cầu tiếp sau đó.
Đánh đuổi thực dân với lòng nhiệt huyết của 1 thế hệ muốn
kiến tạo nước nhà theo kịp các dân tộc trong 4 biển 5 châu. Ứơc muốn của thế hệ
đó, thế hệ của nhà thơ Tế Hanh, của nhạc sĩ Hùng Lân với các ca khúc nhạc hùng
như “Khỏe Vì Nước ”, “Rạng Đông”. Ứơc muốn của họ có trở nên hiện thực, có làm
thay đổi da thịt làng chài Phú Câu thoát khỏi cảnh “cánh bườm vôi” với “làn da
rám nắng” như trong bài thơ Quê Hương?
Chờ xem các videoclip tiếp.
Mùa Lễ Hội Tháng 4
27-3-2014 HBC
Mời vào link này xem video;
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét