Nhân bài
viết “Con Đường Đồng Xuân-Sơn Hòa-Sông Hinh” đăng trong blog Nguyễn Đình Chúc
tôi có cảm hứng viết về con đường lịch sử này.
Người ta than phiền.
Con đường đã
đi vào lịch sử mở đất Phú Yên, con đường quan trọng như thế, mà trong thế kỷ
này vẫn còn có sự than phiền về sự hình thành của nó. Tác giả trên nói “Dân khổ vì đường thi công ì ạch.” Và báo
Phuyenonline, ngày 18-5-2012 cũng than phiền tương tự. Báo này nói khởi công từ
năm 2004, nay còn 25km thi công ì ạch dở dang hệ quả là đường nát bét. Đoạn
thôn Phú Hội, Xuân Phước-xã Hòa Ngãi, Sơn Định bụi bay mịt mù. Cách dốc Đứng
2km có bảng ghi “Đoạn km 40-46+666 sẽ
hoàn thành tháng 7-2011.” Nhưng dân nói đã lâu rồi không có đơn vị nào thi
công. Đoạn đông dân cư Xuân Phước-Xuân Quang 2 dài 20km có 6 đơn vị thi công
làm cầm chừng. Một tờ báo khác than phiền đoạn 5km thị trấn La Hai-Xuân Quang 3
bụi bay mù mịt…
Người ta đã thấy sự quan trọng của con đường nên đã bỏ ra 610 tỉ vốn đầu tư con
đường dài 115km với 11 cây cầu qua 3 huyện phía Tây. Cầu dài trên 410m là cầu
La Hai bắt qua sông Kỳ Lộ(sông Cái) và qua sông Ba(Baomoi.com). Con đường này nối
Bình Định(qua Vân Canh hay qua Sông Cầu) với Đak Lak. Người ta đánh giá con đường
này sẽ giúp giải tỏa QL 1A một khi mưa bão gây ách tắt giao thông vào mùa mưa
lũ. Năm 2010 QL 1A đoạn xã An Dân bị sụt lở nặng có thông báo cho xe chạy vòng
lên đoạn đường phía Tây này(Saigononline). Không những là đường để tránh ngập lụt
và góp phần giải tỏa ách tắt giao thông do QL 1A qúa tải mà mặt kinh tế nó còn giúp
phát triển vùng Tây Phú Yên trở nên giàu có. Đây là vùng sản xuất thổ sản. Sắn
và mía là sản phẩm chủ lực. Đoạn xã Sơn Hội-xã Xuân Quang3 có hàng 100 điểm thu
mua nông sản. Chị Đặng Cẩm Thu nói ngày
nào chị cũng xuất 1 chuyến sắn lát ra cảng Qui Nhơn. Chị nói có đến hàng chục
xe mang biển số 78K chở sắn ra Qui Nhơn.
Thượng đạo Phú Yên. Đó là tuyến nói trên mà ngày nay nói
tuyến xuyên 3 huyện. Ba huyện có tên là: Sơn Xuân, Sơn Hòa và Sông Hinh thuộc tổng
thượng huyện Đồng Xuân ngày xưa. Bản đồ quân sự thập niên 1960 đánh dấu là Tĩnh
Lộ 20 đi từ Triều Sơn, qua đèo Cây Cưa, đến Hà Trung(Xuân Quang), Phú Hội(Xuân
Phước), cắt đường 485 đi Hòa Đa(chỗ Tân Hội, Trà Kê, Núi Đá Chát). Tiếp theo là
đoạn nối dài đi Tân Hội, Tân Bình, Tịnh Sơn, Củng Sơn(Tĩnh Lộ 9B), qua sông Ba
thì đến Tuy Bình. Cũng tuyến đường này nhưng ngày nay có ký hiệu là đường 642 từ
Triều Sơn đi La Hai, Xuân Quang3, Xuân Phước(Phú Hội), cắt đường 643 đi Hòa Đa ở
chỗ Cây Đa(gia), Tân Hội(Sơn Định), đến Sơn Phước(Tân Bình), đến Củng Sơn, qua sông
Ba thì đến Đức Bình Tây(Tuy Bình) rồi đến HaiRiêng.
Địa hình Phú Yên trước khi đề cập đến tính quan trọng
của Thượng Đạo ngày xưa ta có 1 cái nhìn địa lý hình thể Phú Yên. Đất này là 1 phủ khai sinh từ năm 1600 gồm 2 huyện là
Đồng Xuân và Tuy Hòa. Đó là đất của châu thổ của 2 con sông là sông Cái(Kỳ Lộ)
và sông Đà Rằng. Sông Cái có 3 nguồn. Nguồn sông Cái gom nước ở phía Nam và Tây
dãy núi Cù Mông. Nguồn sông Kỳ Lộ gom nước ở phía Nam và ĐôngBắc của dãy núi La
Hiên, nguồn sông Bươn gom nước phía ĐôngNam dãy núi LaHiên và Bắc dãy núi Vân Hòa.
Châu thổ này gồm 1 vùng rộng lớn có núi non bao quanh(dãy núi Cù Mông, dãy núi La
Hiên và dãy núi Vân Hòa), chỉ thông với 1 tam giác châu nhỏ của nó nằm nép mình
bên vịnh Xuân Đài bỡi 2 cái đèo Cây Cưa ở tả ngạn và đèo Thị bên hữu ngạn của sông
Cái. Châu thổ sông Đà Rằng thì ở 2 bên bờ Nam Bắc của nó. Chỉ có thế thôi mà
các huyện của nó khi chia ra, lúc nhập vào rắc rối lung tung. Đầu tiên cải cách
thì có 4 đơn vị là 2 phủ và 2 huyện. Phủ Tuy An, phủ Tuy Hòa và 2 huyện là Đồng
Xuân và Sơn Hòa vào đời Thành Thái 1889-1907. Bây giờ mới có tên địa danh Tuy
An. Nhưng đất đai chẳng khác trước. Huyện Đồng Xuân trước kia mãi tới thời Minh
Mạng(chưa có 2 phủ, 2 huyện) chạy tới bờ Bắc sông Đà Rằng. Do đó ta đưa ra giả
thuyết trước khi có phủ Phú Yên(trước năm 1600), huyện Tuy Viễn của phủ Hoài
Nhân có thể phủ qua khối núi Vân Hòa rồi tràn đến bờ Bắc Sông Đà Rằng để đến tiếp
cận Thành Hồ.
Đường biên giới Phú Yên. Được thành lập dựa vào đường phân thủy
xác định nước đổ bên này hay bên kia của 1 xứ. Ở ĐôngBắc Phú Yên(PY) thì có dãy
núi Cù Mông mà các núi của nó chạy theo hướng BắcNam xác định đường phân thủy
nước đổ vào Bình Định hay vào PY. Ở TâyBắc có dãy núi La Hiên cao nhất ở phía Bắc
PY và cũng có các núi chạy theo hướng Bắc Nam để xác định đường phân thủy 2
tĩnh Bình Định-PY. Bản đồ quân sự thập niên 1960 ghi đỉnh cao 1309m và 1245m
trong khi bản đồ ngày nay ghi đỉnh 1331m và 1145m. Dãy núi La Hiên tiếp tục chạy
theo hướng TâyBăc-ĐôngNam về phía Tây PY đến vùng Trà Kê, Núi Chát thì ngoặc
sang Đông. Nơi đây châu thổ sông Cái tiếp xúc với châu thổ sông Ba(thung lũng
có cao độ chừng 250m. Hai bên có đỉnh 654m. Nơi đây là “đèo” giống địa thế đèo
Cả). Dãy La Hiên bây giờ định đường phân thủy nước chảy về phía sông Ba thuộc
tĩnh Gia Lai(Phú Bổn) hay chảy về châu thổ sông Cái thuộc PY. Phía Nam PY thì có
rặng Đại Lãnh hùng vĩ chạy hướng TâyBắc-ĐôngNam, phân định đường Phân thủy
Khánh Hòa-PY. Hệ núi non này định vị 2 châu thổ nói trên và định được bản đồ PY
có dáng dấp “con cóc đang ngồi trong hóc đưa cái lưng ra ngoài”. Cái lưng không
thẳng mà thắt eo vòng số 8 như cô gái lưng ong cong cong theo dòng chảy của
sông Cà Lúi dùng để phân định 2 tĩnh Gia Lai-PY. Cái “vai con cóc” là chỗ nhô
ra của lưu vực thượng nguồn sông Kỳ Lộ(lưu vực suối La Hiên). “Đưa cái mông ra
ngoài” là chỗ châu thổ sông Ba lấn sâu vào rặng Đại Lãnh theo hướng sông KrongNăng
chảy hướng TâyBắc-ĐôngNam. Sông Cà Lúi thì chảy hướng ĐôngBắc-TâyNam đổ ra sông
Ba chỗ gần sông KrongNăng. “Cái đuôi con cóc” là chỗ thứ 2 châu thổ sông Ba lấn
sâu vào rặng Đại Lãnh theo dòng sông KrongHinh chảy theo hướng ĐôngNam lên TâyBắc.
Các nhà cầm quyền xê biên gới lên, xịt xuống, lấn vào bung ra còn có khi nhập
tĩnh tách tĩnh thùy thích nhưng núi sông
ngàn năm cứ như thế. Núi dùng để ngăn cách đôi đường cứ như thế và hệ nước của
sông ngòi vẫn cứ chảy như thế. Địa hình sinh ra khí hậu. Rồi đất nước sản sinh
con người mà sự văn minh, văn hóa của nó gắn liền với đất nước sinh ra nó nên mỗi
xứ có cái đặt thù. Đất nước của một nhóm dân có thể nói “định tại Thiên Thư.” Bình
Định là Bình Định, Quảng Ngãi là Quảng Ngãi. Phú Yên là Phú Yên, Khánh Hòa là
Khánh Hòa. Đại Chiêm, Cổ Lũy là cái gì riêng của nó. “bắt cóc” bỏ vào thì nó
cũng nhảy ra. Nghĩa Bình rồi cũng lục đục, Phú Khánh rồi cũng chẳng trong ấm
ngoài êm. Khi “ly dị”, tức tách tĩnh, người ta tranh chia từng đôi đũa cái chén
trong 1 chủ trương thống nhất với lý tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nói như thế để thấy
dáng dấp PY của ta “ngàn muôn năm âu cũng thế ni” với núi sông đó mặc dầu nhiều
lần thay đổi biên giới, chia ra nhiều huyện, đặt đủ thứ tên. Nghiên cứu bản đồ
có đánh dấu vòng cao độ xác định địa thế núi sông thì hấp dẫn các bạn ạ. Ngồi
trong nhà mà cứ như đi giao du sơn thủy, hiểu được cái ý nghĩa thụt vào thò ra
của biên giới, hiểu được đất nước con người. Mời xem bản đồ phân ranh giới theo
luật tự nhiên theo đường phân thủy(đường đỉnh) hay theo đường đáy( thung lũng
hay dòng nước) mà bản đồ quân sự trên kia thể hiện.
Thượng Đạo ngày Xưa Từ năm 1471 hạ thành Đồ Bàn đến năm
1600 lâu tới 129 năm. Biên giới phía Nam của Đại Việt không biết chạy tới đâu.
Huyện Tuy Viễn của phủ Hoài Nhân thật mơ hồ, đúng như tên gọi “tuy viễn” là xa
không biết tới đâu mà nói. Có tác giả nói Vua Lê Thánh Tôn lấy đất tới núi Thạch
Bi. Có tác giả lại nói không phải. Chẳng có ai nói đúng và ai không nói đúng cả.
Có điều quan trọng là gần 100 năm nước rơi vào nội loạn(năm 1509 Lê Uy Mục bị
giết đến năm 1600 Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành lập ra phủ PY) mà người Chiêm
không lấy lại được đất Đồ Bàn. Nhiều tài liệu nói lên việc người Chiêm liên tục
đánh phá đòi đất mỗi khi bị mất đất suốt hành trình người Việt tiến chiếm tới
nơi đây(phủ Hoài Nhân). Địa thế châu thổ sông Cái đã đóng vai phòng thủ có hiệu
quả đó.
Cho tới
năm 1600 huyện Tuy Hòa mới thuộc nhà chúa Nguyễn. Ta nghĩ rằng trước đó biên giới
không phải là cái đèo Cù Mông mà là cái sông rộng là sông Đà Rằng và dãy núi Đại
Lãnh hùng vĩ hiểm trở. Như trên đây ta thấy khu vực La Hai( trong chiến tranh
nguyễn Vương Ánh-Tây Sơn gọi là La Thai) như cái pháo đài được bảo vệ bỡi vòng
tường thành núi non hình vòng tròn khép kín chỉ thông ra ngoài ở phía Đông bỡi
2 cái đèo là đèo Cây Cưa và đèo Thị, thông ra Bắc là thượng đạo Bình Định, vùng
Vân Canh hiểm trở và thông qua châu thổ sông Ba ở “đèo” Trà Kê. Leo lên khối
núi Vân Hòa thì Thành Hồ ở trong tầm tay, tầm mắt lại nằm ở phía dưới thấp. Huyện
Tuy Viễn của Lương Văn Chánh chống Chiêm Thành là đây chăng. Thượng Đạo PY thông
qua cái pháo đài này.
Năm 1653 Hùng Lộc tiến quân qua núi Hổ Dương, thẳng đến thành giặc,
đương đêm đốt lửa, đánh gấp, cả phá được giặc. Chiêm Thành quốc vương Bà Tắm trốn
chạy. Cuộc hành
quân thần tốc và bí mật, đánh sau lưng quân Chiêm. Giả thiết được đưa ra là
Hùng Lộc đã xử dụng thượng đạo bí hiểm này. Quân kéo vào theo đường Vân Canh,
tiền quân của Chiêm Thành không hay biết. Tập trung quân trong cái thung lũng
La Thai địch cũng không hay. Di chuyển
theo đường Thượng Đạo qua đèo Hổ Dương đánh bọc hậu vào Ninh Hòa thì địch mới
tá hỏa. Chủ tướng Chiêm Thành thất kinh chạy trốn.
Đến cuối đời
chúa Nguyễn, Chu Văn Tiếp cũng xử dụng Thượng Đạo PY. Trong chiến dịch 9 năm
đánh Tây Sơn để phục hưng nhà chúa Nguyễn, Thượng Đạo cũng được xử dụng. Nơi
đây từng in dấu chân hoàng tử Cảnh mà Bá Đa Lộc đã theo hầu. Biết bao trận diễn
biến ở Thượng Đạo PY(mời xem Thành Cũ Tuy An). Đây là tuyến đường hành quân
gian khó của tướng Nguyễn Văn Thành trong trận năm 1800 giải vây Võ Tánh ở
thành Bình Định. Đại thắng trận này, ngày khải hoàng Nguyễn Văn Thành được làm
tổng trấn Bắc Thành(Hà nội). Trước đó năm 1795 đại binh Tây Sơn của Trần Quang
Diệu vây Võ Tánh ở thành Diên Khánh. Hạ thành chưa được thì Phú Xuân có binh biến.
Đại tướng phải bỏ vây thành để chạy về Bắc. Quân Gia Định chặn đường về ở đèo
Gian Nan và ở đèo Đại Lãnh. Quân Tây Sơn phải dắt diếu theo Thượng Đạo mà đi.
Khi Pháp
tiến chiếm PY trong chiến dịch Atland, đoàn quân ở Cheo Reo( Phú Bổn= Ayunpa)
cũng xử dụng Thượng Đạo. Ngày 15-1-1954 binh đoàn 41 và 42 đánh vào Củng Sơn rồi
theo Thượng Đạo chia 2 cánh. Cánh tiến ra Xuân Phước rồi đến Xuân Quang và cánh
xuống Sơn Long để đến Tuy An(Xem Rặng Đại Lãnh với 3 Đèo).
Thời Đệ Nhất
VNCH tổng thống Ngô Đình Diệm cũng coi trọng Thượng Đạo cho lập khu Dinh Điền ở
Tuy Bình(Đức bình). Nay là là huyện Sông Hinh. Đây là chủ trương lớn. Ngày
23-1-1957 Phủ Tổng Dinh Điền tầm cỡ 1 bộ lại trực thuộc Tổng Thống Phủ được thành
lập. Trên cao nguyên điểm dinh điền nhiều nhất ở Pleiku(Gia lai), ĐakLak và Quảng
Đức(ĐakNông). Tiến trình xây dựng tuần tự trải qua từ việc lập 1 cái ấp rồi di
dân lập khu Dinh Điền để tiến lên khu Trù Mật. Kết quả là những khu chiến lược
được chiếm lĩnh hoàn toàn. Chiến sự ác liệt dần dần không cho phép khu Trù Mật
trưởng thành. Chương trình phải dừng lại ở giai đoạn đầu là cái ấp nhưng được củng
cố thành cái Ấp Chiến Lược rất thịnh hành năm 1962. Việc làm chẳng lạ lùng gì.
Người Anh đã thực hiện ở Mã Lai Á, người Mỹ đã làm ở Phi Luật Tân và triều Nguyễn,
tiểu phu sứ nguyễn Tấn đã làm ở Quảng Ngãi để bình định mọi Đá Vách.
Khi người
Pháp đặt nền bảo hộ ở PY, lãnh đạo của họ cũng đã chú ý đến Thượng Đạo. Ông A.
Laborde, administrateur des services civils de l’Indochine trong tạp chí Đô
Thành Hiếu Cổ BAVH(Bulletin des Amis de Vieux Hue) số 4 năm 1929 dẫn chứng lời công sứ đầu tiên
năm 1890 nói vũng tàu Sông Cầu là vũng tàu đẹp nhất trên hoàn vũ và rằng có 100
tàu vào bỏ neo ở đó( Que la rade de Sông
Cầu etait une des plus belles du monde entier et que 100 vaisseaux à l’ancre y
entraient) vị cựu công sứ này nói thêm là nó phải được thu nhận như là cảng
chính ở Miền Trung(Qu’elle devrait être adoptee comme le port principale de
l’Annam Central). Labode nói ông công sứ nói hơi quá nhưng đối với Laborde thì
cảng Sông Cầu sâu từ 5 đến 15m nhận được các tàu có khi còn tốt hơn cảng Qui
Nhơn. Cảng Sông Cầu lại được yêu thích hơn cảng Qui Nhơn nhờ giao thông dễ dàng
và đã có sẵn giao thông với vùng cao qua La Hai và qua Củng Sơn. Cổng sẽ được mở
ra về phía Kontum và Đaklak. Laborde ca ngợi khí hậu nơi đây. Ông nói ở đây người
ta quên cái mưa phùn gớm giết ở xứ Bắc kỳ và cái khí hậu nặng nề ẩm ướt của xứ
Huế. Hàng ngày ở đây có gió từ biển thổi vào hạ thấp nhiệt độ xuống. Các cơn
mưa tương đối ngắn. Ông ghi nhận 2 địa điểm nghỉ mát là Đèo Cây Cưa và Trà Kê.
Trà Kê(Tân Hội-Núi Chát) có thể coi như 1 cái “đèo” vì là nơi thấp nhất giữa 2
dãy núi La Hiên và núi Vân Hòa, là chỗ Thượng Đạo xuyên qua dãy núi phía Tây
PY. Ông nói 1 bên là bờ biển, một bên là sông ngòi. Hai đèo để luồng gió mát thông
qua hạ nhiệt độ xuống. Chỉ ở cao độ 152m thôi mà khí hậu đã mát mẻ rồi. Hiện tại
người ta thấy ở Trà Kê có cây thông tự nhiên sinh sống. Trà Kê ở kế bên Xuân Phước
là nơi giam giữ tù chính trị(Nguyễn Vỹ, bán nguyệt san Phổ Thông).
Xuân Đài từng
là 1 quân cảng quan trọng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sách Hành Trình Truyền
Giáo của giáo sĩ Đắc Lộ(ĐL), trong chương 1 nói chúa có 150 cỗ thuyền chiến đậu
ở 3 cữa biển(Sông Gianh, Huế và Xuân Đài ?). ĐL nói người Hà Lan nghiệm thấy
thuyền chiến của chúa có thể thắng đoàn tàu lớn của họ. Trong chương 17 nói về
tĩnh Phú Yên, gs nói chúa có nhiều thuyền chiến để chống xâm lăng ở ngay biên
giới. Phạm Đình Khiêm dẫn thư của Đắc Lộ viết cho linh mục Cardim nói Đắc Lộ bị
bão đánh giạt vào 1 cái vịnh êm sóng có cữa là Baday(Ghi chú của sách dịch nói
là Bà Đài). Người giữ cảng dẫn Đắc Lộ đến gặp quan phủ(chương 18 Đắc Lộ nói về
tĩnh Ran Ran). Rõ ràng ngay từ thời “lập quốc”, cảng Xuân Đài đã chiếm 1 vị trí
quan trọng và đã đóng góp nhiều cho sự giữ vững biên giới và cho sự mở mang về
sau. Khi đập Đồng Cam đưa vào xử dụng thì châu thổ sông Đà Rằng mới trở nên trù
phú và tuyến kinh mương số 2 của hệ thủy nông Đồng Cam Bắc mới biến thành trục
đi cao nguyên, tuyến Liên Tĩnh Lộ 7 mà nay được nâng cấp thành QL 25. Cảng Vũng
Rô được kiến thiết thay cho cảng Xuân Đài nhưng hiện tại xây dựng cũng ì ạch
như tuyến đường nói trên.
Con đường
đã đi vào lịch sử và biết bao lãnh đạo ngày xưa đã chú ý đến nó và đã xử dụng
nó mà cho tới giờ này, vào thời hiện đại hóa, công nghiệp hóa, ở thế kỷ thứ 21
này, người ta còn xây dựng nó 1 cách ì ạch giống như sự ì ạch của các cỗ máy
secondhand bỏ bãi của các nước Công Nghiệp Hiện Đại mà 1 thời mình nhập vào hay
mình từng chịu mua công nghiệp lỗi thời của các nước đó để có hình ảnh hiện đại
hóa công nghiệp hóa nhưng tình trạng lại ì ạch. Thế hệ này nối thế hệ khác cứ
tiếp tục đi sau hít bụi mãi như người nông dân nói trên đang hít bụi.
19 tháng 5 năm 2012
Huynh Ba Cung
1 nhận xét:
Nguyên Đình
Jun 1, 2012 3:48 PM
Công phu cho tư liệu và kiến thức nhiều... Trà Kê ở Sơn Hòa chứ không thuộc Đồng Xuân ngày nay! Nơi giam giữ tù đặc biệt (TS : travailleux special. Nguyễn Vỹ TS 68 từng ở đấy. Lao Trà Kê còn có tên Cà Kê âm phát ra từ con két nuôi tại đó ...) Chuc Ông Bầ Tám khỏe...
Đăng nhận xét