Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Mai Tiến Vạn-Công Thần




MAI TIẾN VẠN-CÔNG THẦN ĐỜI VUA NGUYỄN.

Phú yên là 1 tĩnh nhỏ. Đất nước, con người không có gì nổi bậc để hấp dẫn sự chú ý của con dân cả nước. Nhưng lịch sử hình thành Phú Yên chiếm 1 vị trí quan trọng trong lịch sử hình thành Nước Việt Nam vào năm 1804 và Xứ Đàng Trong vào năm 1600.
 






MAI TIẾN VẠN-CÔNG THẦN ĐỜI VUA NGUYỄN.

Phú yên là 1 tĩnh nhỏ. Đất nước, con người không có gì nổi bậc để hấp dẫn sự chú ý của con dân cả nước. Nhưng lịch sử hình thành Phú Yên chiếm 1 vị trí quan trọng trong lịch sử hình thành Nước Việt Nam vào năm 1804 và Xứ Đàng Trong vào năm 1600. Vua Gia Long xin nhà Thanh chuẩn cho quốc hiệu Nam Việt như thời Triệu Đà(đất nước gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây). Nhưng Thanh triều chỉ chuẩn cho tên Việt Nam. Đó là 2 thời điểm tộc Việt ở phía cực Nam này có 2 lần có lãnh thổ rộng lớn nhất(Thời Minh Mạng nước ta có cả trấn Tây Thành ở Nam Vang và phần đất lấn sang Ai Lao). Nhà Thanh lo sợ sự bành trướng của tộc Việt này nên đổi tên Nam Việt thành Việt Nam, lần thứ nhất vào thời Triệu Đà.

Đến năm 1884 Việt Nam mất nước. Các phòng trào phục quốc nổi lên. Từ đó các lực lượng chống ngoại xâm vật lộn với quân ngoại xâm suốt thế kỷ sau, thế kỷ thứ 20, để mưu giành lại nền độc lập. Mở màn là phong trào Cần Vương năm 1885. Uất hận mất nước đổ lên đầu vua Nguyễn. Người ta nói Gia Long rước voi về dày mả tổ. Gia Long rước người Pháp và người dưới trướng của ông rước quân Xiêm(Chu Văn Tiếp). Phong trào Tây Sơn được tôn thờ nhờ hình ảnh của 2 trận đuổi ngoại xâm quân Xiêm ở Rạch Gầm và quân Thanh ở Thăng Long và xuất thân từ dân dã hợp với trào lưu bài phong đả thực. Tây Sơn chưa xây dựng được gì cho đất nước ngoài 2 quân công vẻ vang đó. Người ta quên đi công mở đất Phương Nam của chúa Nguyễn và công dựng nước Việt Nam của vua Nguyễn thuộc tầng lớp quan lại phong kiến. Nguyễn Công Trứ đã từng viết "Đời thái bình cữa thường bỏ ngỏ" ở triều vua Nguyễn, vào thời có nước Việt Nam. Đại Nam Thực Lục(ĐNTL) lẫn Khâm Định Việt Sử Cương Mục(KĐVSCM) đều mô tả cảnh thái hòa sung túc ở Thuận Quảng và giáo sĩ Bori mô tả cảnh giàu có an lạc của Xứ Đàng Trong(XĐT) thời chúa Nguyễn. Cảnh này không thấy người Âu và chánh sử của ta đề cập trong thời Tây Sơn anh hùng áo vải. Công tội khó lường trong 1 cuộc nội chiến. Được sống trong thời thái bình thì thích thú hơn đánh đấm nhau để được tiếng vinh quang. Người ta cũng quên luôn cái nôi Phú Yên trong 2 cuộc dựng nước VN và Xứ Đàng Trong này. Cái tên phủ “Phú Yên” mà chúa Nguyễn đặt cho đất này nói lên cái mong muốn đất của phủ mới này được yên và giàu có. Đặt tên như vậy có lẽ vì lý do trước đó 140 năm đất này không lấy gì gọi là yên ổn cho lắm(1471-1611). Công xây dựng cái nôi này có nhiều công thần trong đời chúa và đời vua Nguyễn.

 Đời Chúa: Nguyễn Hoàng chỉ trở thành chúa Nguyễn kể từ năm 1600 sau khi từ bỏ đất Bắc và được sau này con cháu tôn thờ thành Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế hay Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế(1600-1613). Người sáng lập nhà Nguyễn được tôn thờ là Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế(1804-1819), vua Gia Long. Nhưng chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên(1613-1634) mới thực sự là chúa lấy đất Phú Yên làm căn bản, làm bàn đạp để thực hiện 2 cuộc Nam Tiến xuống phía Nam song song và đồng thời lấy đất Chân Lạp và phần còn lại của nước Chiêm Thành. Mở đầu hoàng tử thứ 6 Nguyễn Phúc Nguyên này trấn nhậm đất Quảng Nam(năm 1602), xây dựng đất ấy giàu mạnh(giáo sĩ Bori và Đắc lộ mô tả như thế). Đến năm 1611 chúa Tiên Nguyễn Hoàng mới cho Văn Phong đánh Chiếm lấy đất đặt ra phủ Phú Yên với 2 huyện Đông Xuân và Tuy Hòa. Chúa cho Văn Phong làm lưu thủ. Huyện Tuy Hòa xuất hiện từ đây. Trước đó có thể bờ Bắc sông Đà Rằng thuộc huyện Tuy Viễn của Lương Văn Chánh(LVC). Quân công của LVC to lớn hơn nhiều so với công xây dựng đất Phú yên, xứng danh hiệu được đời sau tôn thờ là Tiền Trấn Biên Quan(mời xem nhiều bài viết của tôi). Công LVC giữ vững biên cương cho nước Đại Việt để đất Quảng ấm no giúp Nguyễn Hoàng cung phụng cho triều Lê Trung Hưng đánh Mạc ở đất Bắc đã một thời tan hoang vì nội chiến tranh quyền ở trung ương bỏ rơi biên ải ở phía Nam hơn 1 thế kỷ(1509-1611).”Tiền” ở đây còn có nghĩa “tiên” phong, đi trước. LVC là viên quan đầu tiên của 1 loạt những quan trấn biên sau này của người Việt trong công cuộc Nam Tiến. Vì vậy LVC còn được di dân lập miếu thờ nhiều nơi ở trong Nam chứ không riêng gì ở Phú Yên. Tiếp theo Văn Phong, Nguyễn Cảnh Vinh(Nguyễn Hữu Vinh), con rể chủa chúa Sãi là người xây dựng đất này. Và tiếp sau nữa là Nguyễn Phước Yến. Công chọc thủng phòng tuyến rặng Núi Đại Lãnh và sông Đà Rằng, đẩy đất của chúa vào dinh Thái Khang năm 1653 là công của Hùng Lộc. Nhiều tác giả ngày nay nói Văn Phong và Hùng Lộc là người Chiêm. Giáo sĩ Bori nói khoảng năm 1620 Baubon(Quảng Ngãi) và Quinhin(Hoài Nhân) còn thuộc quyền cai trị của cha vợ của sứ thần Zegro mà chúa phái đi Chân Lạp. Chúa chỉ cai trị ở Ciam(Quảng Nam). Cái tên là lạ Zegro của viên đi sứ này làm nhiều tác giả nghi ông ta là người Chiêm(chúa dùng người bản địa đi sứ). Ghi thông tin này để thấy việc chinh phục đất cực nam của Đại Việt rất công phu vất vả trong 140 năm(1471-1611). Tới đời chúa mà vẫn còn phải cai trị mềm mỏng khéo léo với người Phương Nam! Bùi Tá Hán(có tác giả nói bị Chiêm Thành giết) ở Quảng Ngãi và LVC ở Tuy Viễn gặp nhiều khó khăn lắm lắm. Sách để lại nói 2 người này khi chết rất linh hiển. Phải chăng việc cai trị khó khăn làm họ trở thành thánh, thành thần của xứ này?

Vào đời chúa cuối cùng Nguyễn Phúc Thuần(1765-1775) đất Phú Yên cũng có xuất hiện anh hùng(năm 1771 có hiện tượng đá Bia bị sét đánh trở nên trắng toát). Cũng có 3 anh em, 3 anh em Chu Văn Tiếp, khởi nghĩa như 3 anh em họ Nguyễn ở Tây Sơn. Buổi ban đầu lực lượng 3 anh em họ Chu “chẳng kém thua” gì lực lượng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc nể nang khuyến dụ tham gia vào và sau đó họ Nguyễn TS vẫn để yên họ Chu trong 10 năm(1773-1782) trên cao nguyên Phú Yên-Daklak(thượng đạo Khang Thuận và Phú Yên) kháng chiến chống lại họ. Thực Lục Chính Biên từng viết:"Giặc thường răn nhau: "Gia Định có 3 anh hùng, Võ Tánh là 1."  Phần chú thích của sách ấy ghi rõ 3 anh hùng ấy là Chu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhân(ĐTN) và Võ Tánh. Nguyễn vương Ánh đã khử trừ Đỗ Thành Nhân. ĐTN khởi nghĩa ở Ba Giồng sáng lập quân Đông Sơn chống lại quân Tây Sơn. Chu Văn Tiếp bị mạng vong tháng 10 năm 1784, sau năm 1782 bỏ thượng đạo vào cứu Gia Định và trước tháng giêng năm 1785 là tháng Nguyễn Huệ chiến thắng trận rạch Gầm. Đời vua cũng có nhiều danh nhân. Mai Tiến Vạn là một.

Mai Tiến Vạn. Danh nhân này được Bộ Đại Nam (Đại Nam Nhất Thống Chi, Liệt Truyện và Thực Lục) và các văn bản thờ ông ở đình Bình Hòa thành phố Tuy Hòa nói rõ về thân thế. Ở đây tôi chỉ đề cập ông tham gia chiến trường ở Phú yên giữa lực lượng Tây Sơn và Nguyễn vương Ánh trong trận chiến cố tranh làm chủ 2 cái thành chiến lược là thành Diên Khánh và thành Qui Nhơn ở 2 bên tuyến chiến lược rặng Đại Lãnh và sông Đà Rằng để ai sẽ thắng ai. Trận chiến này sẽ đánh giá về ông trong đoạn lịch sử tĩnh nhà. Ông là người địa phương, 1 thuộc hạ của Chu Văn Tiếp, tham gia chiến trường đó. Đưa thông tin này vào đây để thấy công của ông đóng góp vào việc làm nên lịch sử ở đất nước này, vào việc khai sinh ra nước VN to lớn nhất. Cũng như trên đây tôi đưa ra 1 đoạn lịch sử để làm nổi bậc công của LVC, chúa Sãi, Văn Phong, Hùng Lộc, Nguyễn Cảnh Vinh(nguyễn hữu Vinh), Nguyễn Phước Yến thời dựng Xứ Đàng Trong. Sau đây là đoạn mô tả chiến trường quyết định ăn thua của 2 nhà họ Nguyễn.

Nếu Tây Sơn chiếm lại được thành Diên Khánh thì bẻ gãy được kế hoạch thu phục gian sơn nhà chúa của Nguyễn Vương Ánh. Ngược lại thành Qui Nhơn bị đổ thì nhà Tây Sơn sẽ đổ. Cuộc chiến diễn ra cũng 9,10 năm như Việt Minh kháng chiến bên nay cái đèo chống Pháp ở bên kia cái đèo. Câu hát "Anh đi gánh gạo Khánh Hòa/Râu ria nó mọc chứ chưa già đâu em"  nói lên sự vất vả của dân công Phú Yên cung ứng lương thực cho chiến trường Khánh Hòa. Câu hát như hãy còn nghe văng vẳng bên tai. VM giữ vững được tuyến Đèo Cả cũng được 9 năm rồi ngã ngũ. Năm 1975 trận chiến ác liệt dọc đường 7 cũng đưa đến ngã ngũ chiến tranh 2 miền Nam Bắc. Lịch sử có chuyện trùng lặp ở Phú Yên như thời chúa Tiên, chúa Sãi khởi nghiệp Nam Tiến. Phú Yên là đất thiêng chăng. Một khi trận chiến trở nên ác liệt mang đến nơi này thì lịch sử sang trang? (chiến trường được mô tả chi tiết ở bài viết về Thành Cũ Tuy An).

Bắt đầu năm 1793 sau khi Nguyễn Huệ mất năm 1792, Nguyễn Vương Ánh xua quân chiếm Khang Thuận(Bình Thuận và Bình Khang) rồi lấn chiếm Phú Yên, tiến ra Qui Nhơn. Năm 1794 viện quân TS thái úy Nguyễn Văn Hưng và tổng quản Trần Quang Diệu đem 40.000 quân tái chiếm Phú Yên.  Quân Gia Định lấy sông Đà Rằng và rặng Đại Lãnh có 3 đèo chặn lại nhưng bất thành. Trần Quang Diệu tiến vây Võ Tánh cố thủ trong thành Diên Khánh đã được quân Gia Định dựng lên năm trước, năm 1793. Năm 1795 viện binh Gia Định ra giải vây cho Võ Tánh. Võ Văn Lượng đóng đồn ở đèo Gian Nan. Nguyễn Văn Nguyện giữ Thạch Thành. Đặt đồn trại từ núi Cổ Ngựa đến đèo Đại Lãnh. Trương Phúc Luật coi binh thuyền ở Chử Châu(vũng Rô?). Tất cả có nhiệm vụ chặn đường về của quân TS đang vây quân Gia Định ở Diên Khánh. Rồi quân Gia Định tấn công Bình Khang để giải vây cho Võ Tánh ở thành Diên Khánh. Tháng 4 ba đô đốc TS đem quân đồn trú ở sông Đà Diễn bị Võ Văn Sở phá được. Tháng 6 hộ giá TS(triều Quang Toản ở Phú Xuân) là Nguyễn Văn Huấn đem quân vào sông Đà Diễn mưu bắt Trần Quang Diệu đang vây Võ Tánh. Quân Gia Định nghiêm giữ 3 đèo trên rặng Đại Lãnh. Tống Viết Phước nghiêm giữ đèo Đại Lĩnh. Quân TS phạm đèo Gian Nan bị đẩy lui. Tháng 7 Phú Xuân có biến, Trần Quang Diệu phải bỏ vây Võ Tánh để mà lui binh về Phú Xuân và bị chận đánh tơi tả ở tuyến đèo Đại Lãnh và ở đèo Gian Nan, phải theo đường đèo Nhà Cắp chạy về Qui Nhơn rồi về Phú Xuân. Hộ giá Tây Sơn là Nguyễn văn Huấn mưu đánh bắt Trần Quang Diệu không thành về Thuận Hoá trước. Diệu dẫn quân theo. Phú Yên còn thuộc Tây Sơn. Năm 1797 tháng 9 vua ban áo đông cho cai cơ giữ Đại Lĩnh là Mai Tiến Vạn, cho Nguyễn Văn Nguyện giữ đèo Gian Nan.

Tháng 11 năm 1798 Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường đem quân Gia Định phản công, tiến đóng quân ở sông Đà Diễn. Tiểu triều Nguyễn Văn Bảo(con của Nguyễn Nhạc) đánh úp quân Phú Xuân chiếm lại thành Qui Nhơn  bị Thái uý  Nguyễn Văn Hưng chiếm đóng. Nguyễn Văn Hưng thua chạy. Nguyễn Văn Bảo sai Đoàn Văn Cát, Nguyễn Văn Thiệu giữ chợ Hội An(Phú Yên) và sai người dâng biểu xin hàng phe Gia Định. Nguyễn vương Ánh sai Nguyễn Văn Thành từ Bình Khang ra Phú Yên tiếp ứng. Quân Gia Định chưa đến thì Nguyễn Quang Toản đã đem quân vây đánh bắt Nguyễn Văn Bảo giết đi, sai Lê Văn Thanh làm lưu thủ Phú Yên. Phú Yên đổi chủ thuộc triều Quang Toản.

Năm 1799 tháng 3, Gia Định cử đại binh đi đánh Qui Nhơn. Sai Nguyễn Văn Thành ra Diên Khánh sắc cho Đông Cung nghiêm coi 3 đèo trong rặng Đại Lãnh cẩn thận việc quan phòng, cấm đi lại, không được để lộ tăm hơi. Tháng 4 Phạm Văn Điểm giữ Phú Yên đầu hàng Gia Định. Tháng 6 quân Gia Định lấy Thành Qui Nhơn. Đổi tên thành ra Thành Bình Định. Tháng 9  Mai Tiến Vạn đem quân giữ 3 đèo. Phú Yên đổi chủ, thuộc quân Gia Định.

Tháng giêng năm 1800 Thiếu Phó Trần Quang Diệu và Tư Đồ Võ Văn Dũng vào cố đánh chiếm lại thành Bình Định. Võ Tánh giữ chặt thành Bình Định để trói chân các đại tướng TS. Phạm Văn Điểm làm phản chiếm lại Phú Yên cho Tây Sơn. Diệu Dũng lấy Phạm Văn Điểm làm thuộc tướng, cho làm Án Trấn, biên hết dân Phú Yên làm binh, chia đặt đồn sở chống viện binh Gia Định. Nguyễn Vương Ánh sai Trần Văn Duyên hiệp bọn Mai Tiến Vạn, Nguyễn Văn Quế giữ cẩn thận 3 đèo bảo vệ Bình Khang. Viện binh Gia Định phản công. Trần Quang Diệu cho Đào Công Giản, Đô đốc Tuấn vào Phú Yên họp với bọn Phạm Văn Điềm giữ bảo Hội An, La Thai. Tháng 5, TS bỏ Phú Yên. Nguyễn Vương Ánh đóng bản doanh ở Hòn Nan trong vịnh Cù Mông làm hành tại cho chiến trường giải vây Võ Tánh ở thành Bình Định. Phú Yên làm hậu phương cho chiến trường. Tên đèo Vận Lương ra đời. Đây là đường tiếp tế lương thực chở từ Gia Định ra qua cảng trung chuyển Cù Huân ở Bình Khang(có tác giả ghét phe Gia Định lại nói qua đèo này Nguyễn Vương Ánh bòn rút lương thực Phú Yên mang đi theo chiều ngược lại khi đề cập tới lịch sử đèo Vân Lương!).  Mai Tiến Vạn giữ 3 đèo xét hỏi lính trốn và gián điệp qua lại. Tháng 12 năm 1800 thành bình định còn bị vây, cữa Thị Nại thì bị TS giữ vững. Nguyễn vương Ánh nghĩ dùng hoả công để phá cữa Thị Nại.

Tháng giêng năm 1801 quân Gia Định đánh úp thủy quân của Tây Sơn bằng hoả công chiếm được cữa Thị Nại. Phía Nam thành Bình Định thông được với Phú Yên. Tháng 2 vua bỏ Cù Mông đem các thuyền hiệu ở Cù Mông tới đậu ở cữa Thị Nại. Từ Phú Yên trở vào trong trống không. Phạm Văn Điềm lẻn đánh cướp PY cho Tây Sơn. Nguyễn Đức Xuyên, Tống Viết Phước đem thuỷ bộ tiến đánh PY. Quân TS vỡ trốn rồi tham đốc Phạm Văn Điềm trở lại đánh PhúYên lần nữa. Nguyễn Long chống không nổi lui về Đà Diễn. Khí giới, lương thực bị TS lấy hết. Nguyễn Ánh cho rút về giữ 3 đèo chờ lịnh. Sai Lê Chất đem quân đánh lấy Phú Yên. Điềm thua chạy. Vua bàn định ngày xuất quân đánh Phú Xuân, lưu Nguyễn Văn Thành cầm cự với Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng đang bao vây thành Bình Định. Tháng 5 ngày Mậu Dần lấy được kinh đô Phú Xuân. Ở thành Bình Định thì lương hết Ngô Tòng Chu uống thuốc độc chết. Võ Tánh lấy thuốc súng bỏ vào lầu Bát giác tự thiêu. Tháng 6. Diệu, Dũng chiếm được cái thành trống không, sai Tham đốc Phạm Văn Điềm đánh cướp giữ PhúYên để cắt quân Gia Định. Vua Nguyễn sai Tống Phước Lương đi thuyền vượt vào 3 đèo hội với tiên phong Nguyễn Văn Tánh đang chống giữ ở Phú Yên. Tuyển lính khoẻ ở Gia Định đánh úp lấy Phú Yên. Phạm Văn Điểm cố đánh lấy Phú Yên để chia cắt quân Nguyễn, cô lập thành Diên Khánh nhưng không thành. Quân TS bị kẹt trong cái thành trống không với 1 phủ Hoài Nhân xơ xác. Lê Văn Duyệt từ Quảng Ngãi đánh xuống, Nguyễn Văn Phành ở phía cữa Thị Nại đánh lên.

Tới tháng 3/1802 Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành không còn giữ thế thủ cầm chân nữa, mới mở thế tấn công thành Bình Định. Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu bỏ thành theo thượng đạo đi ra Nghệ An, chấm dứt 10 năm tranh chấp chà xát tơi tả đất Phú Yên nằm giữa 2 cái thành chiến lược quyết định ăn thua. Mai Tiến Vạn người địa phương đã tham gia trận chiến, trận chiến giặc gió mùa trải suốt 10 năm.

Mộ phần của Mai Tiến Vạn. Sinh ra từ cát bụi thì sinh vật phải trở về với cát bụi thôi. Việc làm thì được ghi lại trong các trang sử, trâu chết để da người ta chết để tiếng. Các nhân vật làm nên lịch sử đất Phú Yên trên đây vết tích nay không còn thấy gì ngoài vài trang sử sách. Chuyện chiến tranh trên đây nay di tích chỉ còn để lại ở đất Phú Yên là khu Miếu Công Thần trong vịnh Cù Mông, nơi thờ-nơi an nghỉ các chiến sĩ trong trận chiến nói trên và mộ phần của Mai Tiến Vạn ở thành phố Tuy Hòa. Phải nói là 1 may mắn mà mộ phần của viên tướng này mới còn sót lại tới ngày hôm nay. Tướng là vì ông lên đến chức chưởng cơ. Quân Thần Sách(quân chính qui) của Nguyễn Vương Ánh có 3 cấp quân hàm: Cai Đội, Cai Cơ và Chưởng Cơ lớn nhất tương đương ngày nay cấp úy, tá và tướng. Năm 1797 MTV mang quân hàm Cai Cơ, năm 1803 mang quân hàm Chưởng Cơ và có tước hầu.  Tước đời xưa có 3 cấp: Hầu, Quận Công và lớn nhất là Quốc Công. LVC cũng có tước Hầu.

Mộ của MTV ngày ngay ở trong 1 xóm nghèo nằm ngay sau bức tường phía sau VIỆN BẢO TÀNG Phú Yên hoành tráng. Bia mộ Chính giữa ghi:  SẮC HÙNG UY TƯỚNG QUÂN THỤY TRUNG PHẤN MAI HẦU CHI MỘ: Bên phải ghi: TIỀN MỘ SA ĐỘNG QUÝ HỢI HẠ THIÊN . Bên trái ghi: BÍNH DẦN XUÂN NĂNG TỊNH XÃ PHỤNG TẠO. Nghĩa là mộ trước ở động cát. Năm Qúi Hợi  dời về đây. Mùa Xuân năm Bính Dần, xã Năng Tịnh phụng tạo.

Mặt sau 1 linh vị thờ trong đình Bình Hòa ghi: "Nhâm Tuất niên nhuận ngũ nguyệt nhị thập bát nhật. Thiên táng vu bổn xã. Mộc giới lâm tọa giáp canh kiêm mão dậu. Chí Bính Dần niên tam nguyệt tạo bi vu mộ tiền. Thị niên tòng táng Mai tiên khảo vu Mai hầu mộ liên cận vu hữu, tọa giáp canh kiêm mão dậu. Bi vu mộ tiền". Nghĩa là cải tán năm Nhâm Tuất  (1922), lập bia mộ năm Bính Dần(1926)  và cùng năm ấy tán thêm cha của ông.  Tại sao bia mộ ghi cải táng năm Qúi Hợi(1923) còn linh vị ghi cải táng năm Nhâm Tuất(1992)? Có vị lão thành còn nói trước đây thấy bên cạnh mộ Mai Tiến Vạn có đến 3, 4 mộ nữa, chứ không phải một.

Một linh vị khác ghi trong lòng vị: ĐẠI VIỆT CỐ KHÂM SAI CHƯỞNG CƠ TÁNH MAI TỰ TIẾN VẠN ĐỆ TỨ HÀNG THẦN CHỦ. Bên dưới 3 hàng ngang ghi: MỘ TÁNG TẠI AN TOÀN XÃ ĐỊA PHẬN. TÒNG TIÊN KHẢO MỘ CHI ĐÔNG. TỌA GIÁP CANH KIÊM DẦN THÂN. Nghĩa là khâm sai chưởng cơ họ Mai, tự là Tiến Vạn…Mộ tán tại xã An Toàn. Tán theo có mộ của cha của ông.

Năm 1992 (Nhâm Thân) con cháu trùng tu mộ Mai Tiến Vạn như thực trạng hiện nay, thêm bia quốc ngữ ghi là “Cao cao tổ”.

Sa động, An Toàn xã là động cát ở chỗ  dải cát chạy từ nhà ga Tuy Hòa đến chỗ gần tới núi tháp. Hai bên Đông-Tây của dải là đồng ruộng. Khoảng năm 1920 người Pháp đến đây xây dựng lâu đài trên dải cát hẹp này. Có mộ của một ông Tây được chôn ở chân núi nay gần chỗ con đường dẫn lên Tháp Nhạn. Phố xá, chợ Dinh ở góc ĐôngBắc và ĐôngNam núi Nhạn Tháp(núi Bửu Tháp).

Một vài lời để kết thúc. MTV là một nhân vật tham gia 1 giai đoạn lịch sử rõ ràng ở một móc lịch sử quan trọng như trên mà bị hậu sinh đồng hương của ông quên lãng. Trong khi Lương Văn Chánh tuy là 1 công thần cũng của đất này nhưng thân thế cũng như giai đoạn lịch sử đất này mà ông tham gia hãy còn lờ mờ lại được hậu sinh tô vẽ cứ như họ sống thực ngay ở thời điểm ông LVC sống. Vì vậy miếu thờ ông thường tình như các miếu thờ ông ở nơi khác lại được dựng lên giả giối thành lăng của ông với sự tốn kém không cần thiết và bia ghi công của ông diễn dịch sai với lịch sử: Một tiền trấn biên quan của huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhân thành khai quốc công thần của phủ Phú Yên mới có sau này(năm 1611). Một cái mộ cổ nào đó cách xa miếu cả vài km được gán ép là mộ của ông. Miếu thờ biến thành lăng! Sở dĩ có việc này chỉ vì vinh danh danh nhân bằng cảm tính. Đời sau xét danh nhân thường dựa vào cảm tính, diễn dịch cho phù hợp trào lưu đương thời. Xét công chống ngoại xâm để vinh danh thì dễ. Những nhân vật có tài nổi bậc về cai trị, quân sự cùng nhân cách thì cũng dễ vinh danh dù ở phe bên này hay bên phe đối nghịch. Ví dụ Trần Quang Diệu lẫn Võ Tánh cả 2 bên dễ chấp nhận là anh hùng và có công. Trong khi những nhân vật khác trong các cuộc nội chiến khó phân biệt chính tà, công tội. Vinh danh thường do tình cảm của người đang cầm quyền yêu hay ghét bên nay hoặc bên kia do họ giống mình hay khác với mình. Yêu LVC đến nỗi nhận họ Lương ở làng Phụng Lịch Thanh Hóa là tiên tổ của ông và nhận trạng nguyên Lương Thế Vinh có dính dấp tới địa phương Phú Yên nên lấy tên Lương Thế Vinh làm tên trường.

Thân thế và giai đoạn lịch sử Phú Yên thời LVC còn sống không rõ ràng gì. Sử giai đoạn trên dưới năm 1600, thời nội chiến,  sử Bắc(ĐVSKTT) viết sơ sài (lo đánh đấm có mấy ai lo viết với lách!). Mãi khi nhà Nguyễn thống nhất nước nhà cho sưu tập thông tin cho ra đời bộ Đại Nam(Đại Nam Nhất Thống Chí, Liệt Truyện và Thực Lục) và sách KĐVSCM thì có vài sự việc được rõ ra. Trong buổi ban đầu sưu tầm tài liệu sách Liệt Truyện viết về LVC quá vắn tắt nên trở nên khó hiểu. Thực Lục thì bỏ sót tên ông. KĐVSCM thì chẳng để cập tới LVC. Thế hệ trung học năm 1945 tiếp thu được bộ Đại Nam và biết được nhân vật LVC. Cọng với miếu và truyền thuyết về LVC có ở địa phương này nên lấy tên LVC đặt cho tên trường trung học đầu tiên ở Phú Yên. Trường đúng nghĩa là 1 trường chỉ tồn tại 1, 2 niên khóa. Sau đó trường phân tán để tránh máy bay Pháp đánh phá thành các trường lấy tên địa phương làm tên như trường Lò Tre, trường Phú Lộc…Các trường này đóng góp nhân lực cho VM ở Phú Yên rồi tập kết ra Bắc. Thế hệ này sau năm 1975 trở về lập ra trường LVC hiện tại và nhận có sự liên tục của trường LVC từ 1945 đến nay. Họ tự hào về trường LVC và vinh danh nồng nhiệt nhân vật này mà không cần thắc mắc chi nữa. Điều đó gây thiệt hại cho sử nước nhà. Sử phải có cái nhìn khách quan để con cháu khỏi phải học cái sai lạc.  Nhà Nguyễn cho sử quan sưu tập tài liệu mới để bổ túc cho ĐVSKTT. KĐVS cho ta biết trấn quận công ở Quảng Nam có tên là Bùi Tá Hán thay cho tên trống không là trấn quận công như ĐVSKTT đã viết và năm 1571 người dẹp loạn ở Quảng Nam rồi ở lại trấn thủ là Mai Đình Dũng thay vì viết Dũng quận trống trơn, không biết tên là gì như ĐVSKTT đã viết. Tên Bùi Tá Hán và tên Mai Đình Dũng được đưa vào chính sử nhờ khám phá được sách Phủ Tập Quảng Nam Ký Sự của người họ Mai(Mai thị) ở Quảng Nam. Nếu có cái khách quan nhìn về LVC thì thân thế LVC sẽ được rõ ra và thông tin quí giá trong 14 sắc phong còn lưu giữ thờ ở miếu LVC sẽ được nhà làm sử đưa vào chính sử kiểu như trên để bổ túc cho đoạn văn trong Liệt Truyện và trong ĐNNTC còn tối nghĩa. Liệt Truyện viết truyện cả 1 đời người của LVC gộp với sự kiện năm 1596 và năm 1597 thành 1 đoạn văn ngắn với lối hành văn nôm dịch ra quốc ngữ khó hiểu(có lẽ lúc đó chưa phát hiện 2 bản văn ký năm 1596, 1597): Việc vào Nam năm 1558 là 1 chuyện. Việc năm 1578 đánh Thành Hồ là chuyện khác. Việc phong chức tước là việc mãi tới năm 1596  mới xảy ra(do có công lâu ngày từ trước) bây giờ mới có được chức tước đó(năm 1596) rồi năm sau(1597)được làm quan huyện Tuy Viễn và được sai đi khai hoang lập ấp ở đất Nam đèo Cù Mông(văn bản ký sai đi là 1 chuyện nhưng tình hình thực tế chưa chắc LVC thực hiện y như văn bản đã ghi là chuyện khác! Không nên vội. Phải đối chiếu với sử và tài liệu nước ngoài). Chết tặng Quận Công.  Nghiên cứu các bản văn ấy người ta còn thấy LVC là người của Trịnh Tùng nữa. Sự thể như thế thì không thể nói rõ LVC làm được cái gì hết cho đất Nam Cù Mông trước năm 1597(mời xem Thân Thế Lương Văn Chánh và Những Tồn Nghi). Thân thế của ông chỉ được rõ ràng ra trong 2 văn bản ký năm 1596 và năm 1597. Hai bản văn đó chính quyền không trân quí giử gìn bảo quản mà quí cái LĂNG và bỏ phế cái miếu thờ!
Nếu nói MTV tham gia phe vua quan phong kiến chiến đấu chỉ để bảo thủ ngai vàng nên không vinh danh sửa sang phần mộ thì người hùng số 3 sau Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng là Phạm Văn Điểm, trung thành với Tây Sơn(TS) 4 lần xông pha cố chiếm cho được PY để đổi cán cân thắng bại về phe TS oai hùng cảm động như vậy sao không vinh danh, không ai biết tới mà lại dạy trẻ em biết tên trạng nguyên Lương Thế Vinh(xem bài Thành Cũ Tuy An)!


Mùa Tình Yêu (valentime)năm 2012

Huỳnh Bá Củng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét